4
C úc nép mình bên cánh cửa, qua vết gỗ nứt dài, Cúc nhìn rõ khu vườn lóng lánh ánh trăng. Đêm mười sáu vườn cây tràn ngập ánh sáng dịu dàng, từng đợt gió lay động cành lá làm ánh sáng nhảy múa oằn oại trong bóng cây đen xẫm. Cúc thầm nghĩ, trăng hôm nay phải tròn và đẹp lắm. Từ vị trí này Cúc chỉ có thể ngắm được khu vườn bên ngoài, cô không thể nhìn thấy trăng được. Đã từ lâu rồi, đã từ rất lâu, Cúc không còn được ra ngoài vườn nhìn trăng như thuở nào bình yên.
Nhìn ánh sáng tràn ngập ngoài vườn, Cúc thấy nôn nao lạ thường, hình như Cúc thấy mình nhỏ bé và đang bị cái ánh sáng kỳ dị, quyến rũ đó tràn ngập. Toàn thân Cúc rung động, cô ngước mắt lên cao để nhìn được ánh trăng, nhưng dù ngước lên đến thế nào, đỉnh cao tận cùng của vết gỗ nứt cũng chỉ chạm vào mái tôn, nơi đó Cúc nhìn thấy ngọn đèn chai leo lét. Mắt Cúc chạm phải ngọn đèn, sự đam mê như ngã xuống. Cô nhớ ngay được lệnh của lính đồn “đêm đến phải treo đèn trước nhà, cấm không được ai đi lại”. Lệnh đó từ hồi nào Cúc không hề hay biết, nhưng việc treo đèn chai, ngồi yên trong nhà nó đã là một thói quen của Cúc, của mọi người ở vùng này. Cũng từ lâu lắm, cứ tối đến sau khi treo đèn, đóng cửa kỹ lưỡng là Cúc chui vô hầm ngủ với bà Năm, Cúc đã quên ánh trăng, không hề biết tới sự quyến rũ tuyệt vời của vườn cây một đêm trăng sáng. Chiều nay khi được bà Hai đưa cho lá thư của Phổ gửi về, Cúc mừng đến run rẩy, “thế là chú Phổ đã lên tới Phước Long bình yên”. Từ hôm Phổ đi Cúc bỗng băn khoăn cho Phổ lạ lùng, buổi chiều tựa cửa nhìn ra vườn, bóng tối dâng lên buồn muốn khóc. Lúc chiều Cúc xem thư, một cái Phổ gửi cho bà Năm, một cái Phổ gửi cho anh Huỳnh, nhìn giòng chữ vững vàng của Phổ thốt nhiên Cúc tin rằng “chú Phổ vẫn được khỏe”. Cô cầm hai lá thư chạy thẳng vào nhà, đến bên bà Năm reo mừng :
- Có thư chú Phổ.
Cúc run rẩy xé bao thư rồi đọc lớn cho bà Năm nghe. Trong thư Phổ nói đã lên tới Phước Long bình yên, lo lắng về sức khỏe của mẹ và nhiều lần dặn dò Cúc săn sóc, lo liệu việc nhà. Thư gửi anh Huỳnh thì Phổ vắn tắt vừa an ủi Huỳnh vừa nhắc Huỳnh suy tính kỹ để đối phó với cảnh khó xử hiện tại. Đọc xong thư, bà năm khóc làm cô sụt sịt khóc theo.
Cúc có cảm giác cứ để cho nước mắt trào ra thì dễ chịu hơn nín nhịn nhiều. Bà Năm nói Cúc cất giữ thư Phổ để tìm dịp về Phú Hội trao Huỳnh. Suốt buổi tối, không lúc nào Cúc không nhớ tới Phổ, dọn dẹp xong Cúc vào hầm nằm ngủ, nhưng trằn trọc không thể nhắm mắt được. Cúc nghĩ sẵn cách viết thư, cách gửi thư cho Phổ. Cô tưởng tượng ra cả vùng Phước Long rừng rú và dáng Phổ lênh đênh in dài trên nền cây xanh thẫm đó. Những ý nghĩ vui buồn quấn quít lấy nhau, phức tạp, đổ dồn trong óc làm Cúc bối rối, cuối cùng Cúc đành phải vùng dậy ra ngồi tựa bên cánh cửa. Cô thầm ao ước trời sáng ngay bây giờ, cô có thể mở cửa ra chợ mua giấy bút viết thư cho Phổ. Cúc thầm trách buổi chiều đã quên khuấy điều này. Bồng bềnh với ý nghĩ hỗn tạp, Cúc quay qua và đụng ánh sáng tuyệt vời ngoài vườn. Từ đó, cô đã mê mải ngắm nhìn ánh trăng qua vết nứt nơi cánh cửa. Cúc nhìn rõ những lá soài dài thượt, lóng lánh ánh trăng chao đi trong gió, Cúc không ngờ có những đêm ngoài vườn đẹp đến múc độ này. Cô thấy thèm khát và muốn được uống ánh sáng xanh biếc long lanh đó.
Vườn cây trái ngập ánh trăng đưa Cúc về với tuổi thơ khi còn ở Phú Hội. Cúc thấy mình nhỏ bé, nhớ tới khuôn mặt từng người trong gia đình, ba, má, các em. Ý tưởng lướt nhanh trong quá khứ thơ ấu và đưa Cúc lớn dần. Cảm giác đau đớn cùng độ khi được tin gia đình chết trọn vì đại bác, lại một lần nữa hành hạ Cúc. Nỗi đau đớn cùng độ tưởng như chết hẳn trong lòng, lại cuồn cuộn dâng lên làm nước mắt chảy ra dàn dụa. Cơn đau đớn ấy bao giờ cũng làm Cúc bơ vơ, lạc lỏng và cuối cùng thì Cúc chỉ còn thấy có một hình ảnh nương tựa duy nhất trên đời, đó là chú Phổ. Bao giờ thì hình ảnh Phổ cũng hiện ra trong trí óc như dỗ dành và Cúc thấy đỡ đau đớn, cô quạnh. Cúc nghe rõ tiếng Phổ âm thầm “cuộc đời nào cũng khổ sở hết, ráng nương nhau mà sống”. Cúc không thể nhớ Phổ đã nói với Cúc trong trường hợp nào, nhưng đã thuộc lòng câu nói đó và thấy được an ủi.
Ngoài sân một con mèo nhỏ dón dén lại gần mái nước, con mèo thè lưõi liếm trên nắp mái còn đọng nước mưa, phản chiếu ánh trăng lóng lánh. Nghĩ tới Phổ, bỗng nhiên Cúc thấy ngượng ngùng, Cúc nhớ rõ giấc mơ hôm trước, Phổ đứng nói chuyện với Cúc sau nhà rồi hôn lên má, hơi thở của Phổ làm Cúc run lên, khi môi Phổ đụng vào da thịt, Cúc thấy da thịt mình nó nổ bừng, lạnh toát, tan ra và bốc hơi như sương khói. Mỗi lần nhớ tới, Cúc có cảm giác phạm tội, cô cố gắng xua đuổi giấc mơ kỳ dị đó đi, nhưng Cúc càng đàn áp, trí óc càng thắc mắc, không hiểu tại sao mình đã nằm mơ như vậy. Giấc mơ làm cho Cúc ngượng ngập, bẽn lẽn với chính mình, cô đã từng chống cưỡng lại ý nghĩ lạ lùng đổ đến bằng cách nắm chặt lấy tóc mai giựt mạnh và thầm thì “không, không thể như vậy được, chú Phổ là chú Phổ, cháu là cháu của chú…” dù Cúc cố gắng chống cưỡng những ý nghĩ vô tình thế nào thì Cúc cũng buồn bã đến bải hoải khi nghĩ rằng Phổ vẫn chỉ coi mình như một cô em. Cúc không hề thấy một dấu hiệu gì chứng tỏ Phổ có cảm tình đặc biệt với mình và cô thấy tủi thân. Cúc càng phân vân hơn, khi thấy rằng mình vừa muốn chống cự, muốn xua đuổi ý nghĩ yêu Phổ, vừa muốn chuyện đó xảy đến. Mỗi lần bối rối, Cúc phải túm lấy tóc mai giựt mạnh đau đến chảy nước mắt.
Cúc ngồi bên khe cửa với các ý nghĩ lẻ loi cho đến khi mệt quá gục xuống thiếp ngủ.
Giấc ngủ chập chờn làm Cúc mệt rồi rũ rượi, tới gần sáng cô mới tỉnh dậy và không ngờ cả đêm đã nằm vật bên cánh cửa này.
Cúc cố gắng đứng dậy mở cửa ra sân, trời đục, sương xuống mù mịt, cây cối trong vườn ướt đẫm. Không khí mát mẻ làm Cúc tỉnh táo lại dần. Cúc tính đi mua giấy viết thư cho Phổ, nhưng cô nghĩ nên đợi bà Năm thức dậy tính chuyện về Phú Hội, gặp chú Huỳnh trước đã. Bà Năm lúc này đã khỏe và có thể tự lo lấy mọi việc, không còn phải trông cả vào Cúc và vì thế Cúc rảnh rang hơn và có thể ở lại Phú Hội một ngày mà không lo lắng sốt ruột.
Cúc ngồi ngoài hè cho đến lúc bà Năm thức dậy kêu vô và sau khi tính toán đủ chuyện Cúc mới lên đường về Phú Hội.
Toán người về thăm nhà phải băng vườn vì đường lộ còn đầy mô lính đồn chưa phá kịp. Đi trên lộ phần ngại đạp nhằm mìn, phần lo đôi bên đụng độ, bị lọt giữa vòng lửa đạn cũng kẹt. Cúc nhập bọn với năm người đàn bà lối xóm vượt ngang các vườn trầu, vườn hồ tiêu trồng xen kẽ cây ăn trái, bóng mát dịu dàng, chim chóc ríu rít trên cành. Cúc thầm ước ao những ngày bình yên trở lại. Đi khỏi Bến Cam, toán người vượt qua một con lạch nhỏ, mùa mưa nước đầy, mặt nước dềnh lênh ngập cả khu vườn quanh đó. Chị Hải vừa xắn quần lội nước vừa nói :
- Cái mửng này, chắc Cống Lò Rèn lại bị mấy ông giật sập…
Một ngưòi khác góp chuyện :
- Nghe nói họ giật bốn bữa rồi.
Người đàn bà chép miệng rồi tiếp :
- Nước không thoát được tràn lên, vườn cây trái nghẹn nước rồi chết hết.
Toán người bì bõm lội qua mấy thửa vườn nghẹn nước. Cúc nhìn những cây trầu thối gốc, lá úa rũ rượi cô bỗng mủi lòng. Một người đàn bà đạp nhằm miểng chén lằn nhằn :
- Tôi không biết tại sao mấy cha ưng phá nhau hoài, bên đắp, bên phá tối ngày, chỉ dân là mệt !
Tiếng suýt miệng kéo dài tiếp theo giọng nói nhỏ nhẹ :
- Vô tới đây rồi bà nội, giữ mồm giữ miệng một chút.
Vượt khỏi khu vườn bị ngập nước thì tới ranh ấp Phú Hội, toán người đang rảo bước đột nhiên nghe tiếng quát :
- Đứng lại !
Cả đám người hốt hoảng đứng khựng. Cúc bối rối nói nhỏ :
- Chết rồi…
Một người đàn ông lạ mặt tay lăm le khẩu súng từ một bụi cây bước ra, người đàn ông tiến lại gần đưa mắt soi mói nhìn từng người trong đám. Cúc liếc nhìn và đụng nhằm ánh mắt sắc xảo của y khiến cô lung túng cúi mặt. Người đàn ông quay lại phía sau ra lệnh :
- Chú hiệp, ra coi giấy mấy người này cho tôi.
Y vừa nói vừa lùi lại gần gốc cây lớn cầm súng thủ thế, một người thanh niên khác nhảy ra, hắn tiến tới và xét giấy từng người. Mấy người đàn bà vừa trình giấy vừa kể lể vì sợ bom đạn phải bỏ nhà chạy ra Phước Thiền ở đỡ. Người thanh niên vai đeo súng dưới thắt lưng lủng lẳng hai trái lựu đạn, lầm lỳ xem giấy từng người, khi hắn hỏi giấy Cúc, Cúc lúng túng móc túi làm rớt cả đống giấy tờ trên mặt đất. Cúi vội cúi người nhặt lên rồi kiếm tấm thẻ kiểm tra đưa cho người thanh niên. Người thanh niên trừng mắt ngó Cúc giọng nói lạnh lùng :
- Đưa tất cả coi.
Cúc líu ríu đưa xấp giấy cho y, cô thấy lo lắng vì trong đó có cả bức thư của Phổ gửi cho Huỳnh. Người thanh niên lật từng mảnh giấy xem xét kỹ lưỡng, khi y lật tới bức thư của Phổ, Cúc thấy y cau mắt rồi đột nhiên ngó Cúc :
- Người nhà cô đi lính cho Ngụy ?
Cúc đáp vội :
- Dạ… Chú tui…
Ngưòi thanh niên chặn ngang :
- Chú cô đi lính ở đâu ?
- Trên Phước Long.
- Cô vô đây làm gì ?
Cúc cuống quit :
- Dạ… Dạ nhà tôi ở Phú Hội, tui về thăm nhà.
Người thanh niên xốc lại khẩu súng, y lớn giọng :
- Thưa, cô này có chú là lính Ngụy.
Người đàn ông từ gốc cây bước lại cầm lấy bức thư của Phổ trong tay gã thanh niên, rồi cau mặt :
- Giữ cô này lại.
Cúc thảng thốt ngó một ngưòi đàn bà, ông đã sẵng giọng :
- Mấy chị này muốn vô thì đi lẹ đi.
Những người đàn bà líu ríu rảo bước bỏ lại mình Cúc. Cúc hoảng hốt nài nỉ :
- Xin các ông…
Người đàn ông chặn ngang :
- Cô theo tôi.
Hắn đưa Cúc vào một căn nhà tranh gần đó, ở nơi này có cả đám người lạ mặt, Cúc đoán là bộ đội ở xa về.
Cúc được dẫn tới trước một gã đàn ông râu ria lởm chởm đang ngồi trước hiên nhà. Người đàn ông dẫn Cúc lên tiếng :
- Thưa đồng chí Đại Đội Trưởng, cô này có người nhà đi lính Ngụy.
Ngưòi Đại Đội Trưởng ngó Cúc rồi gật gù :
- Người nhà là lính Ngụy, vô đây làm gì…?
Giọng Cúc run rẩy :
- Dạ, chú Hai tui làm việc trong này.
Người Đại Đội Trưởng đứng dậy cầm lấy bức thư của Phổ trong tay gã đàn ông vừa xem hỏi :
- Thư này gửi cho anh Hai, anh Hai của cô tên gì ?
- Dạ… chú Hai tui tên Võ Văn Huỳnh.
Người Đại Đội Trưởng cau mặt tỏ vẻ suy nghĩ rồi hỏi tiếp :
- Thư này của tên Phổ gửi cho anh hắn ?
- Dạ, của chú tôi gửi cho anh ruột.
Người Đại Đội Trưởng rút lá thư đọc, tay Cúc níu lấy cây cột mà cô vẫn thấy run, cô thầm nghĩ trong thư chú Phổ chỉ hỏi thăm qua loa chú Hai, có điều bậy nhất là ngoài phong bì ghi rõ địa chỉ nhà binh của Phổ.
Người Đại Đội Trưởng xem xong lá thư, hắn quay qua :
- Kêu giúp tôi đồng chí Xã đội.
Y ngồi xuống hiên nhà, nhìn Cúc rồi nói :
- Thôi được, cô ngồi chờ đó.
Cúc dón dén ngồi xuống chân cột, cô thấy lo ngại đến bồn chồn, chuyện sơ sót nhỏ nhặt này không khéo lại liên lụy tới chú Hai thì khổ. Cúc ngồi được một lúc thì anh bộ đội dẫn người đội trưởng du kích tới. Người Đại Đội Trưởng đứng dậy nói :
- Đồng chí Xã đội coi xem cô này làm gì, có người nhà đi lính Ngụy.
Anh Xã đội bước đến trước mặt Cúc, cô thoáng thấy quen quen và không nhớ đã gặp hắn ở đâu. Anh Xã đội chưa kịp hỏi Cúc đã bị người Đại Đội Trưởng gọi giật lại :
- Đồng chí cầm luôn cái thư này, điều tra giúp.
Anh Xã đội đưa tay nhận lá thư hỏi Cúc :
- Người nhà cô là ai ?
- Dạ, chú Huỳnh.
- Huỳnh nào ?
- Võ Văn Huỳnh.
Người Xã đội chăm chăm nhìn Cúc, y nhắc lại :
- Võ Văn Huỳnh… sao kỳ vậy nè.
Y đổi giọng gay gắt :
- Cô nói thiệt.
- Dạ, chú tui mà.
Người Xã đội du kích nhăn mặt. Cúc nhìn rõ những vết nhăn xếp trên vừng trán sần sùi. Y có vẻ lúng túng rồi quay qua người Đại Đội Trưởng giọng nhẹ nhàng :
- Thưa đồng chí, cô này khai là người nhà của đồng chí Huỳnh ủy viên kinh tài Phú Hội, có lẽ phải dẫn cô ta vô tuốt xóm Hố, vì bây giờ đồng chí Huỳnh hoạt động trong đó.
Người Đại Đội Trưởng nhìn Cúc rồi nói :
- Thôi được, vụ này tôi giao cho đồng chí, nhớ phải điều tra kỹ, đồng chí cũng ra lệnh cho du kích xã chặn hết những người ở ngoài vô trong này lại, cho đến khi có lệnh mới, để họ ra lộ hết.
Người Xã đội du kích nhận lệnh rồi quay lại nói với Cúc :
- Cô đi theo tôi.
Cúc được dẫn ra khỏi khu vườn cây rậm rồi lên lộ. Từ đó theo đường lộ Cúc được đưa thẳng vào xóm Hố. Suốt đoạn đường người Xã đội du kích không hề hỏi Cúc điều gì. Hai bên đuờng Cúc thấy loáng thoáng bóng dáng những người bộ đội trong các vườn cây. Tới xóm Hố, Cúc được dẫn vào một ngôi nhà gỗ, vừa đến thềm, Cúc đã thấy Huỳnh đang ngồi với hai người lạ mặt quanh một bàn tròn kê giữa căn nhà. Cúc mừng rỡ gọi lớn cầu cứu :
- Chú hai… Chú Hai.
Huỳnh giựt mình nhìn ra, anh tỏ vẻ bối rối khi thấy Cúc, người Xã đội nhanh nhẹn bước vào nhà lên tiếng :
- Đồng chí Huỳnh, cô kia có phải ngưòi nhà đồng chí không ?
Huỳnh lúng túng :
- A… Con Cúc… Cháu nuôi tôi…
Mấy người cùng bước ra ngoài cửa đến gần Cúc. Cô đúng im ngó Huỳnh. Người Xã dội du kích tiếp lời :
- Cô này bị các đồng chí bộ đội giữ lại có bức thư của một tên lính Ngụy gửi cho đồng chí.
Huỳnh cau mặt, đến gần Cúc giọng gắt gỏng :
- Thư nào, ai vậy ?
Ngưòi Xã đội du kích chìa lá thư củ Phổ cho Huỳnh :
- Thư đây… đồng chí có biết tên này không ?
Huỳnh chăm chú nhìn lá thư rồi đột ngột quay lại hỏi Cúc giọng tức giận :
- Cúc… thằng Phổ đi lính hả… nó đi hồi nào…?
Cúc biết rằng Huỳnh cố đánh lạc sự soi mói của những người lạ mặt, cô vội đáp :
- Dạ, chú Phổ bị tụi nó hốt giữa đường rồi tống lên Phước Long ít bữa nay…
Huỳnh vẫn cau có :
- Sao vụ này tôi không biết…?
Cúc ấp úng :
- Khi không bị bắt đi, làm sao biết được, chú Phổ gửi thư về cho bà, cháu mới hay…
Một người lạ mặt đứng lầm lì gần cửa chặn ngay :
- Thôi, vụ này để giải quyết sau.
Hắn gật gù rồi tiếp :
- Vụ này kẹt cho đồng chí Huỳnh lắm đấy !
Cúc thấy rõ Huỳnh lúng túng đến tội nghiệp, người lạ mặt vẫn tiếp tục giọng nói khàn khàn :
- Vào họp tiếp đi, đồng chí Xã đội để vụ này tôi giải quyết… Cô em ngồi đỡ ngoài này chờ chúng tôi một lúc.
Mấy người trở lại ghế, anh Xã đội trưởng bỏ ra đường. Cúc lo lắng ngồi xuống thềm nhà. Buổi họp bên trong lúc thầm thì, lúc lớn tiếng. Cúc nghe tiếng được tiếng không, nhưng cô cũng có thể hiểu qua đưọc câu chuyện bàn quanh việc thâu thuế, việc giựt mìn sập Cống Lò Rèn. Giọng người lạ gay gắt đổ trách nhiệm cho Huỳnh về quyết định giựt mìn Cống, khiến một ngưòi du kích bị lính đồn bắn bị thương. Giọng nói khàn khàn gắt gỏng lọt qua tai Cúc :
- Tôi muốn hỏi rõ đồng chí Huỳnh sao không chịu đào phứt mấy đoạn đường phía trên mà cứ phải giựt Cống Lò Rèn mới được ?
Huỳnh giải thích :
- Sở dĩ tôi cho anh em ra giựt cống ở ngoài cho tiện, phá trong này vừa tốn nhân công, không đạt được kết qủa, đào đường bọn nó vẫn có thể chạy xe được.
Vẫn giọng khàn khàn, giọng nói làm Cúc nhức nhối trong óc:
- Theo tôi biết thì lý do đồng chí Huỳnh nêu ra không có đủ các yếu tố thực tế để bào chữa cho sự lầm lẫn của đồng chí được...
Tiếng Huỳnh lấn át :
- Thưa đồng chí Bí thư…
Giọng khàn khàn cắt ngang :
- Đồng chí để tôi nói dứt đã, theo sự điều tra về vụ này tôi được biết sở dĩ đồng chí quyết định giật sập Cống Lò Rèn là vì hai lý do, thứ nhất đồng chí ngại điều động nhân công trong xã để đào bứt hai trăm thước đường phía trong, thứ hai khi đồng chí được đề cử tạm thời thay thế đồng chí xã đội mắc đi công tác, đồng chí đã xử dụng du kích mạo hiểm ra tận ngoài cống đặt mìn vì đồng chí muốn mấy mẫu vườn của tên Hớn nghẹn nước, nhằm trả thù vụ tranh đất trước đây !
- Không, tôi không hề có các ý nghĩ đó.
Giọng người Bí thư chậm rãi :
- Đồng chí Châu cho biết ý kiến.
- Dạ… thưa, theo tôi biết là vụ này có nhiều yếu tố đặc biệt. Đồng chí Huỳnh từ trước vốn có thái độ lừng chừng, không dám điều động cũng như ít tích cực thâu thuế của nhân dân đúng mức, hơn nữa, đồng chí Huỳnh hay lợi dụng công việc chung để giải quyết các quyền lợi cá nhân. Theo tôi biết thì chuyện tranh chấp giữa đồng chí Huỳnh và tên phản động Hớn có từ bảy năm trước, bởi thế bây giờ đồng chí Huỳnh mới không dám bỏ đây chạy ra Phước Thiền, tên Hớn hiện làm cảnh sát ngoài đó và nó đe nếu gặp đồng chí Huỳnh sẽ bắn bỏ.
Người Bí thư cướp lời :
- Bởi thế việc hoạt động của đồng chí Huỳnh cho Mặt Trận, cho đảng vẫn là sự miễn cưỡng…
Huỳnh chặn ngang :
- Xin đồng chí Bí thư hiểu rõ là tôi tích cực hoạt động…
- Đồng chí tích cực để gia đình chạy ra Phước Thiền, em đồng chí đi lính cho Ngụy ?
- Tôi phải cho con Cúc đưa má tôi ra ngoài đó vì má tôi suyễn kinh niên, chạy vào Hang Nai sợ phải di chuyển bất tử thì kẹt, còn thằng Phổ nó trốn lính, đi học về bị tụi nó bắt ngang làm sao cản được.
Cuộc bàn cãi đột nhiên im lặng. Cúc càng lo lắng cho Huỳnh, cho gia đình hơn.
Cúi nhìn những con kiến đang tha trứng nối đuôi nhau thành hàng dài trên cột gỗ. Giọng nói khàn khàn lại đập vào tai Cúc :
- Thôi đưọc, tôi yêu cầu đồng chí tích cực đẩy mạnh các công tác hơn nữa, đồng chí cũng nên đem bà cụ vô trong này và liên lạc kêu tên Phổ về với Mặt Trận…
Cúc nghe rõ tiếng xô ghế và thấy mấy ngưòi bước ra khỏi cửa, cô khép nép đứng dậy. Hai ngưòi lạ bước nhanh khỏi khoảng sân lát gạch ra lộ, Huỳnh quay lại vừa trông thấy Cúc đã lớn tiếng :
- Mày loạng quạng thế nào mà để họ bắt đuợc thư ?
Cúc đứng yên nước mắt dàn dụa, Huỳnh nhìn sững Cúc một lát, đột nhiên anh thở dài :
- Chuyện lỡ hết trơn… tao đã dặn kỹ là dấu kín chuyện thằng Phổ, khi không…
Cúc ấp úng :
- Cháu, cháu…
Huỳnh nhăn nhó xoè hai tay :
- Kẹt hết… thôi được, bây giờ mày tạm về Phú Hội, ở nhà đợi đó, tao lo mấy công tác xong, lo giấy tờ để mày ra Phước Thiền rước má vô, họ bắt buộc như thế… còn chuyện thằng Phổ nữa…
Huỳnh thở dài hỏi Cúc :
- Má hết suyễn chưa ?
Cúc sụt sịt :
- Dạ, hết rồi chú.
Huỳnh nhìn Cúc, giọng nói an ủi :
- Biết làm sao hơn được, thôi ráng vô trong ở với thím và mấy em vậy.
Cúc vội hỏi :
- Thím và mấy em vẫn ở Hang Nai.
Huỳnh chán nản :
- Ờ, vẫn lẩn quẩn trong đó. Ra ngoài này đâu được, bom đạn càn quét dài dài… mày cũng liệu giữ gìn sức khỏe, trông hốc hác lỡ bệnh thì khổ…
Cúc vịn vào cây cột hỏi lại :
- Bây giờ chú phải đi đâu ?
- Bị giao công tác đủ thứ… thôi về gấp Phú Hội đi, tao phải chạy qua Phú Mỹ gấp.
Không để Cúc kịp nói, Huỳnh đã quay người đi ra. Còn một mình trong căn nhà xa lạ, thốt nhiên Cúc không cầm được nước mắt, cô gục đầu vào cánh tay khóc nức nở.
No comments:
Post a Comment