Sunday, October 25, 2009

Chương 3 / Chiến Trường Tồi Tệ - Ngô Đình Vận

3

X e chạy gập ghềnh giữa hai hàng cây cao vút, đường thật xấu, những cái ổ gà lớn với gạch đá lởm chởm, chiếc xe lam chạy dằn nghiêng ngửa như người say rượu. Phổ cố gắng bám lấy thành xe để tránh những cái sóc dữ dằn. Mấy người hành khách luôn miệng than phiền và la oai oái. Người tài xế già với mái tóc muối tiêu lởm chởm buột miệng :
- Đ.M, đào hoài…
Mấy chị đàn bà góp chuyện :
- Hồi này mấy ổng lộng dữ.
- Ngày nào cũng có đắp mô đào đưòng hết trơn, lính đồn sửa đâu có thấu.
Một chị đàn bà tỏ vẻ thành thạo :
- Lộng quá thì lại có hành quân lớn, êm được vài tuần đâu lại vào đó hết.
Những câu chuyện vụn vặt làm mọi người quên được đoạn đường và gần gũi nhau hơn, hành khách như chia sẻ cho nhau những dằn vặt, những cái sóc nẩy người với người tài xế già, với chiếc xe hằn học cố nuốt từng khúc đường tồi tệ. Mỗi lần xe rồ ga để chồm qua một mô đất, Phổ thấy hai chân tê dại hẳn đi, anh cố dùng sức mạnh của hai tay nâng người dậy và rút khẽ chân phải đang kẹt cứng trong một mớ chân hành khách, sự cục cựa cái chân của Phổ làm cô gái ngồi cạnh phải đổi thế ngồi, cô gái vừa xoay người vừa trao cho Phổ một nụ cười dễ dãi đến vô tội. Từ đó, mái tóc lòa xòa của cô gái bay ngược chiều gió chờn vờn trên da mặt khô cứng của Phổ, anh có cảm giác như một con vật nào đó đang bò trên má, trên cổ mình, cảm giác này làm Phổ nhớ tới Thúy An. Chiều qua Phổ đã dẫn An đi chơi cũng nhờ có cơn gió vô tình đã khiến mái tóc Thúy An bung rối đùa giỡn trên khuôn mặt Phổ. Cái nhột nhạt của những sợi tóc mảnh mai ấy để đủ cho Phổ có được một kỷ niệm tuyệt vời như sự ngơi nghỉ bình yên, như được nằm soài trên một bãi cỏ non xanh sau những ngày lội bộ trường kỳ trong các cánh rừng gai góc miền biên giới.
Chiếc xe chạy qua một đồn Nghĩa quân và từ đó xe bon bon chạy trên mặt đường nhựa phẳng và vượt qua cây cầu sắt lót gỗ.
Phổ nhổm người về phía trước, qua vai người tài xế anh đã thấy dãy phố thấp, mái lợp ngói cong kiểu cổ, bên hông chợ Phước Thiền. Hình ảnh quen thuộc này làm Phổ xúc động, anh tưởng chừng như mới hôm qua, hôm kia, tháng trước theo mẹ ra chợ sắm quần áo tết. Phổ đã từng đứng sững bên cột chợ đợi mẹ mua đồ và thẫn thờ nhìn những đám rêu từng ụ trên mái ngói, màu rêu vừa đen vừa xanh, ý nghĩ mát mẻ, trơn tuột làm anh thích thú, tuổi thơ ấu thật bé bỏng, thật êm đềm lướt qua như một đợt mây che bớt ánh sáng chói lọi mặt trời.
Chiếc xe thắng mạnh, Phổ ngã dúi vào vai cô gái nhưng cô gái chỉ cười, mấy người hành khách lao xao. Có tiếng nói cong cớn trách ông tài xế :
- Về tới bến rồi còn làm dữ nữa… tía !
Người tài xế xoay hẳn người lại nhe răng để lộ chiếc răng vàng lấp lánh ở khóe môi thâm xịt. Xe de vào bến đậu phía cuối chợ, hành khách xuống xe ồn ào. Phổ nán lại cuối cùng vừa trả tiền xe cho người tài xế và hỏi thăm :
- Từ đây vào Phú Hội có xe không bác ?
Người tài xế trố mắt nhìn Phổ tỏ vẻ ngạc nhiên :
- Trời đất, xe chạy tới đây là cùng đường đó chú.
Phổ gợi chuyện :
- Hồi này dữ lắm hả bác ?
- Mìn hoài, không xe nào dám chạy hết ! Chạy vô xóm Trâu là có chuyện rồi, súng nổ dài dài, lớp mìn, lớp mô lu bù, ở trong đó ngày nào cũng đụng hết , dân chúng bị thương chết đều đều.
- Tuốt trong Phú Hội êm không bác ?
Người tài xế ngó sửng Phổ :
- Êm gì, vùng của mấy cha còn dữ thần hơn nữa. Vô trong đó sống sao nổi, đại bác, bom, đạn tối ngày đâu ai dám ở !
Người tài xế đẩy chiếc xe vào sát lề đường hỏi lại :
- Chú người vùng này ?
- Dạ, gia đình tôi ở Phú Hội.
- Trỏng bây giờ đâu còn ai, chạy hết trơn, lớp ra đây, lớp chạy trốn lên Long Thành, người nào theo mấy cha thì rút vào trong Hang Nai lận…
Người tài xế bỏ lửng câu nói quay ra rước khách đi Long Thành, Phổ ngập ngừng vừa vuốt lại mái tóc xõa trên trán vừa ngó qua khu chợ, anh cố gắng tìm một người quen nhưng không hề thấy ai cả, Phổ đành vào một quán Tàu đối diện kêu cà phê uống.
Phổ ngồi ngay cái bàn thiếc ngoài cùng vừa uống nước vừa để ý sang bên chợ tìm người quen thuộc . Từ phía bên bàn trong, mấy người Nghĩa quân súng đạn lỉnh kỉnh ngồi nhậu la lối ồn ào. Câu chuyện xoay quanh các chiến tích cá nhân, những vụ phục kích đụng độ chết hụt được kể lại với các chi tiết nhỏ nhặt. Một anh Nghĩa quân mặt thẹo vừa chửu thề vừa phanh ngực áo trật hẳn vai trái la lớn với bạn :
- Cái thẹo này là ghẻ ruồi sao mày ?
Tiếng cười rần rộ. Phổ liếc nhìn cái thẹo phẳng lì bóng nhẩy, anh với tay uống một ngụm cà phê. Ngay lúc đó, Phổ chợt nhận ra một người quen đang lúi húi mua bông vạn thọ ở bên kia chợ. Phổ đứng dậy trả tiền rồi lướt nhanh qua đường sang chỗ bán hoa. Anh cất tiếng gọi :
- Thím Tư.
Người đàn bà giật mình buông rớt bó vạn thọ, bà ta ngẩng mặt ngó Phổ rồi reo lên :
- Trời ! Phổ hả, làm tui hết hồn.
Phổ cuống quýt :
- Thím Tư, ở trỏng ra hả… Má tôi còn ở Phú Hội không ?
Người đàn bà nhíu mày :
- Chạy ra ngoài hết trơn… Bom đạn quá chừng ở trỏng không nổi !
- Má tôi bây giờ ở đâu ?
Người đàn bà đưa tay bóp trán :
- Dì Năm cũng chạy ra… ở nhờ đâu đó… Tui có thấy dì và con Cúc ở ngoài này…
Bà Tư ngừng nói lấy tay chỉ về phía đầu chợ :
- Chú thử hỏi bác phó rèn coi… Tôi thấy con Cúc ra vô nơi đó thường lắm.
Phổ mừng rỡ chào người đàn bà rồi hấp tấp đi lại đầu chợ.
Xưởng lò rèn được đặt trong mái hiên của một căn nhà gỗ, phía trước một con bò được cột vào hai đóng gỗ đang được ông già thay móng. Ông già mặt sần sùi, râu tóc lởm chởm ngồi trên cái ghế thấp, hai bàn tay hí hoáy bắt chân trước của con bò đặt lên một miếng da lớn trải trên lòng, Ông già lật ngửa đế chân bò và lấy mũi dao nhọn cậy móng, ông ta đẩy mạnh cán dao, bàn tay thô kệch nổi lên những gân chằng chịt, chiếc móng sắt văng mạnh trên nền xi măng, con bò lồng lộn giữa hai đóng gỗ kềm cứng. Ông già bình tĩnh đặt chiếc móng mới vừa khít vào đế chân bò rồi lấy đinh đóng lại, ông già cắm cúi làm việc không hề biết Phổ bước tới. Đóng xong chiếc móng , ông già thả chân bò xuống, con bò ngoan ngoãn đứng im trong đóng gỗ, ở mép nó còn sùi ra đống bọt trông như một đám bọt xà bông.
Ông già lom khom đứng dậy, tay với chiếc ghế kéo qua phía trái, lúc đó Phổ vội bước lại lên tiếng :
- Thưa bác…
Ông già ngẩng mặt lên, Phổ nhìn rõ đôi mắt đục ngầu ẩn sâu trong khuôn mặt đen đủi, những vết nhăn chằng chịt làm thành từng rãnh chứa mồ hôi. Ông già hất hàm râu tua tủa tỏ ý hỏi. Phổ đến bên đóng gỗ và nói :
- Thưa bác, cho cháu hỏi thăm gia đình bà Năm ở Phú Hội tản cư ra đây ở đâu ?
Ông già vẫn dương cặp mắt trân trối nhìn, hai tay phủi trên miếng da đeo lòng thòng trước bụng, ông ta hỏi :
- Chú hỏi có việc gì ?
Thấy ông già có vẻ ngần ngại, Phổ vội nói :
- Cháu là con bà Năm, bác làm ơn chỉ dùm chỗ ở của má cháu.
Mặt ông già dịu hẳn lại, ông bước tới vui mừng nắm tay Phổ kéo vào bên trong :
- Con dì Năm hả, vào trong này… vào trong này.
Phổ hấp tấp bước theo ông già, anh vấp phải ngưỡng cửa muốn té, ông già kéo mạnh tay Phổ và nói :
- Vào đây, đứng loạng quạng ngoài đó phiền lắm !
Thái độ của ông già khiến Phổ lo ngại. Ông ta kéo Phổ vào nhà, ấn ngồi xuống bộ ván khuất sau cánh cửa nói khẽ :
- Dì năm dặn qua. hễ có ai tìm thì dè chừng, lúc này cả hai bên đều làm khó cho gia đình em hết.
Phổ càng băn khoăn, anh không biết chuyện gì đã xẩy ra, giọng Phổ lo lắng :
- Má cháu hiện giờ ở đâu, bác ?
- À… ở trong bà Hai phía sau đây thôi, để tôi kêu con Út dắt em qua ngay.
Ông già vừa gãi cằm vừa lớn tiếng gọi, một đứa bé gái gầy gò lấp ló sau vách gỗ. Ông già vẫy vào dặn :
- Mày đưa anh qua nhà bà Hai… anh con dì Năm đó.
Con bé dương mắt thao láo nhìn, Phổ đứng dậy nắm lấy tay đứa nhỏ dịu dàng :
- Em đưa anh qua…
Phổ ngoái lại nói với ông già :
- Buổi chiều con qua hầu chuyện bác.
Ông già ậm ừ trong miệng. Đứa bé dẫn Phổ đi lối cửa sau của những thửa vườn cây trái đến một căn nhà gạch, mái ngói trúng đạn sập hẳn một góc người ta đã dùng mấy tấm tôn che đỡ.
Ánh nắng phản chiếu trên mái tôn làm Phổ chói mắt, anh hỏi đứa bé :
- Nhà trúng đạn hồi nào vậy em ?
Đứa bé trả lời miễn cưỡng :
- Lâu rồi !
Hình như con bé có thói quen ngần ngại với người lạ, khi tới gần căn nhà nó nói:
- Nhà bà Hai đó.
Chưa dứt lời, con nhỏ đã quay ngoắt người chạy tung tăng trong vườn. Phổ bước tới, Anh nhìn ngay thấy Cúc ngồi nơi cửa của căn nhà gỗ phía sau, Cúc đang ngồi dỡn với một con mèo nhỏ. Phổ gọi lớn :
- Cúc.
Cúc giựt mình quay ra, reo lên :
- Chú, Chú…
Cô tất tả đứng dậy bước vội ra ngoài rồi đứng sửng lại ngó. Phổ thoáng nhận trong ánh mắt của Cúc sự ái ngại. Cô cắn chặt lấy môi, Phổ vột hỏi :
- Má đâu.
Giọng Cúc run rẩy :
- Trông chú vừa gầy vừa đen, lạ hẳn đi. Bà ở trong nhà.
Cúc đẩy cửa vào nhường lối cho Phổ, anh vừa bước vào nhà đã thấy má nằm co ro trên võng, bà cụ đang ngủ, tiếng thở khò khè phát ra từng đoạn, biết ngay là mẹ đang bị cơn bịnh kinh niên hành hạ, Phổ quay lại phía Cúc giọng lo lắng :
- Má bịnh từ bao giờ ?
Cúc ngập ngừng :
- Bà bịnh cả tuần lễ rồi…
Phổ nhìn mẹ, anh thấy đau đớn và trắc ẩn đến nghẹn ngào. Anh nói khẽ với Cúc :
- Để yên cho má ngủ, cô ra ngoài này cho tôi biết qua chuyện nhà một chút.
Phổ và Cúc bước ra ngồi ở hiên sau, trước mặt là vườn cây rộng. Phổ hỏi Cúc :
- Chạy ra ngoài này lâu chưa ?
- Lối hai tuần rồi chú.
- Ở trong lộn xộn dữ sao ?
- Bom đạn tối ngày không ai ở được.
- Chi hai và mấy đứa nhỏ đi đâu ?
Cúc ngập ngừng… Phổ quay qua thấy nước mắt Cúc vòng quanh sắp khóc, giọng Cúc lo lắng :
- Thiếm và mấy đứa nhỏ theo chú vào tận Hang Nai.
Phổ ngạc nhiên quay qua hỏi dồn :
- Sao không chạy ra ngoài này, vào trong đó làm gì cho mệt.
Cúc đã lấy lại bình tĩnh, giọng nói trầm hẳn :
- Ở nhà nhiều chuyện rắc rối quá chú ơi, chú Hai bị kẹt cứng ở trỏng đâu có dám chạy ra ngoài này nữa.
- Sao kỳ thế ?
Cúc kể lể :
- Mấy người Nghĩa Quân đòi bắn bỏ chú Hai, cháu và bà chạy ra ngoài này vẫn bị họ theo dõi thưòng ngày.
Phổ sốt ruột nhìn Cúc :
- Nghĩa Quân ở đâu lối thế ?
Kẹt lắm chú ơi, chả là tháng trước chú Hai đi họp với mấy ông Mặt Trận ở dưới Bến Cam sao đó, giữa đêm, Nghĩa quân nhào tới vây bắt, hai bên bắn nhau khiến một nghười Nghĩa quân chết, một người bị thương, chú Hai chạy thoát nhưng lại đánh rớt giấy tờ. Nghĩa quân lượm được và từ hôm đó ở nhà bị rắc rối hoài…
Phổ nhăn nhó hỏi lại :
- Bộ hồi này mấy cha bắt anh Huỳnh hoạt động dữ lắm sao ?
- Cháu không biết rõ, nhưng thấy chú Hai phải đi họp tối ngày, thiếm hai lo lắm, có lần thiếm nói với cháu “có người cán bộ ở xã bị chết, chú Hai bị mấy ông bắt lo việc thế”. Nghe Cúc nói, Phổ đã hiểu được phần nào những nỗi khó khăn của gia đình gặp phải, anh cũng hiểu ông già lò rèn có vẻ ngần ngại hồi nãy. Anh hỏi Cúc :
- Từ hôm ra đây cô có gặp anh Hai lần nào không ?
- Vài bữa, thấy êm cháu lại về Phú Hội một lần, cháu gặp chú Hai lẩn quẩn ở mấy nhà trong xóm Hố, chú có vẻ lo lắng dữ, người gầy hẳn đi, chú Hai nói thím và mấy đứa nhỏ vẫn khỏe, chú Hai còn dặn cháu rằng hễ chú có về thì nói chú nên lánh mặt để người ngoài ngó thấy kẹt cho chú Hai ở trỏng lắm.
- Cô gặp anh Hai một mình hay còn có ai đi theo không ?
- Mấy lần gặp chú Hai đều có người lạ hết, chú Hai có vẻ bận việc lắm chỉ nói với cháu ít câu rồi bỏ đi ngay.
Phổ thở dài nhìn ra ngoài vườn, nắng thật chói chang. Những cây trầu lá vàng rực quấn quanh mấy thân cau rêu mốc. Anh hỏi Cúc sơ qua về gia cảnh người chủ nhà, tình hình ở Phước Thiền, càng nghe Cúc nói, Phổ càng thấy một trăm chuyện khó khăn đang tới tấp xảy đến cho gia đình anh. Cúc ngó Phổ rồi nói :
- Chú ra rửa mặt cho khỏe đã.
Phổ theo Cúc ra cạnh lu nước đặt dưới một gốc cau. Cúc lấy chậu thau, khăn mặt và múc nước cho Phổ. Phổ vục mặt vào thau nước mưa mát rượi, anh thấy đỡ mệt một phần nào. Rửa mặt xong, Phổ với tay lấy chiếc gáo múc nước mưa trong lu nước uống, giòng nước mát mẻ chạy qua cuống họng đắng chát làm dịu hẳn cơn nóng đang bốc lên hừng hực trong người.
Cúc đứng ở phía sau, lúc này cô mới hỏi về đời sống quân ngũ của Phổ. Anh quay lại nhìn Cúc, Cúc vắt chiếc khăn lên sợi dây phơi, cô bé lớn hẳn lên cùng với những lo âu ảm đạm trên khuôn mặt, bỗng nhiên Phổ thấy ái ngại và thương Cúc.
Có tiếng rên từ trong nhà vọng ra, Cúc chạy vội vào miệng nói :
- Bà dậy rồi đó chú.
Phổ bước nhanh vào bên võng, anh gọi :
- Má… Má…
Bà năm nghe tiếng gọi mở choàng mắt dậy, người mẹ nhận ra đứa con bằng những giọt nước mắt chảy ướt đầm gò má nhăn nheo. Phổ ngồi xuống bên võng, giọng bà Năm đứt đoạn :
- Con về hồi nào…?
- Dạ vừa về.
Câu chuyện giữa hai mẹ con tiếp tục với những tiếng nấc nghẹn ngào. Bà Năm cựa mình trên võng nhìn Cúc rồi nói với Phổ :
- Bây giờ má chỉ còn biết trông cậy vào con nhỏ, hai đứa bây… mỗi đứa một nơi má không còn biết làm sao cho tụi bay nữa.
Phổ cắn môi yên lặng, anh cố gắng nuốt từng tiếng nấc của má. Phổ đau đớn đến tê dại nhưng không thể khóc được, không còn khóc được, qua khung cửa sổ anh thấy một tàu lá chuối khô xơ xác còn treo lủng lẳng dưới thân cây.
Từ đó cho đến buổi chiều, Phổ quanh quẩn trong nhà phụ với Cúc cho má uống thuốc, ăn cháo. Tất cả các công việc đó khiến Phổ càng thấy rõ sự mật thiết của Cúc đối với gia đình. Anh nhận thấy rằng Cúc đảm đang hơn lúc trước rất nhiều.
Sau bữa cơm, Cúc dẫn Phổ lên nhà trên gặp bà Hai, bà Hai tỏ ý vui vẻ khi thấy Phổ được về thăm má, tuy nhiên bà cũng bảo Cúc phải đưa Phổ sang bên nhà ông Liên gia Trưởng khai báo để tránh chuyện phiền phức. Lúc trở về nhà thì trời đã xẩm tối, Cúc hí hoáy lôi ngọn đèn chai ở dưới gầm ván ra thắp lên trên trước hiên nhà, Cúc nói với Phổ :
- Có lệnh trong đồn, đêm đến phải treo đèn trước cửa để lính đồn khỏi bắn nhầm.
Phổ nhìn ngọn đèn chai hộ mạng hắt hiu, đong đưa trong cơn gió và cảm thấy buồn nản lạ thường. Cúc treo đèn xong kêu Phổ vào nhà đóng cửa lại. Cúc lại nhắc thêm một lệnh nữa của đồn lính :
- Đêm đến không ai được ra khỏi nhà.
Cúc bước tới bên võng đưa bà Năm lại phía hầm nổi, Phổ chạy lại đỡ một bên, giọng Cúc thì thào :
- Đêm phải ngủ trong hầm tránh đạn lạc.
Hai người dìu bà Năm tới cạnh hầm nổi đưọc thiết lập ở một góc nhà. Đó là một bộ ván, bên trên trải từng lớp bao đất, chung quanh được đắp thật dày. Chỉ ngỏ lỗ đủ để một người chui lọt.
Phổ đỡ má chui vào hầm, qua ánh đèn dầu Cúc cầm trong tay, Phổ thấy bên trong được trải chiếu, chăn gối đầy đủ như một giường ngủ. Bà Năm chui vô nằm gọn trong hầm quay ra nói với Phổ:
- Đêm nay chịu khó nằm cả trong này cho chắc ăn…
Phổ chưa kịp trả lời thì Cúc đã nói :
- Ở trỏng rộng lắm, nằm ba bốn người cũng được. Ở đây đêm nào cũng nghe súng nổ hết trơn.
Phổ nói :
- Thôi, để tôi nằm ở võng, súng nổ chạy vào cũng kịp.
Bà Năm ậm ừ trong hầm, tiếng Cúc át hẳn :
- Không được đâu chú, nằm ngoài nguy hiểm lắm, mới hôm trước đạn bắn lủng ván lọt tuốt vô nhà.
Cúc cầm cây đèn dọi lại bên vách tìm vết đạn.
Phổ đứng dậy quyết định :
- Thôi được, cô cứ vào ngủ trước đi, tôi tháo chiếc võng đem lại mắc kế hầm có chuyện gì nhào vô kịp chán.
Thấy Phổ cương quyết nằm ngoài, Cúc vội tháo chiếc võng đem lại máng kế hầm nổi. Cúc lo dọn chỗ ngủ cho Phổ xong xuôi mới chịu tắt đèn chui vào hầm ngủ.
Cúc và Phổ thì thào nói chuyện thật khuya, những tiếng súng đì đùng từ xa vọng lại xen kẽ trong cơn suyển khò khè của má Phổ.
Trong đêm hình như Phổ chỉ thiếp đi từng lúc vì mệt, những tiếng súng rời rạc làm anh giật mình thức giấc và anh thấy sợ hãi cái bóng tối dày đặc của vùng Phước Thiền này.
Buổi sáng Phổ dậy thật sớm nhưng vẫn nằm lì trên võng hút thuốc. Cúc căn dặn chờ cho trời sáng hãy mở cửa ra ngoài, Phổ nằm đợi tiếng động của những căn nhà kế cận và anh thấy thời gian chậm chạp vô cùng.
Có tiếng sột soạt trong hầm, hình như Cúc đã thức dậy, Phổ im lặng nhìn mẩu thuốc lập loè, chỉ còn đóm lửa nhỏ nhoi này trong bóng tối bao phủ. Tiếng động trong hầm kéo dài và mạnh một lúc, giọng Cúc ngái ngủ :
- Chú không ngủ được sao, trời còn sớm lắm !
Phổ buột miệng đáp :
- Tôi vừa thức dậy.
- Không nhìn thấy chú hút thuốc, cháu đâu biết chú thức…
Giọng Cúc tỉnh táo hơn :
- Chú tính ở mấy ngày.
- Định về một ngày để biết tin nhà, nhưng má ốm thì phải ở lại cho đến khi hết phép.
Cúc nhoài người ra khỏi miệng hầm. Phổ trông thấy mái tóc bù xù lấp ló :
- Đã lâu bà không bị suyển, có lẽ hồi này bà lo quá nên bệnh, ra ở ngoài này vài bữa, bà tính sai cháu vào rước thím Hai và mấy em ra luôn, nhưng hôm cháu vô được trỏng thì thím Hai đã dắt mấy em chạy vào Hang Nai rồi. Từ ngày đó bà nhớ mấy em hoài, phần lo cho chú Hai, cho chú nữa. Ở ngoài này bà than buồn và cứ muốn về trỏng, nhưng chú Huỳnh dặn cháu cố giữ bà ở ngoài này cho đến khi nào êm đã.
Phổ hỏi lại :
- Sáng nay Cúc tính về trỏng sao ?
- Dạ, bà nói cháu vô gặp chú Hai xem tình hình thế nào ?
Phổ lo lắng :
- Cô coi chừng đó, loạng quạng kẹt ở trỏng thì mệt.
Cúc im lặng một lát rồi nói, giọng nói tin tưởng :
- Cháu ra vô hoài đâu có ăn nhằm gì, khi nào thấy người ta đi được thì mình mới vô chứ đâu có đi ẩu mà sợ.
- Cô nên cẩn thận, lúc này cả nhà chỉ còn trông cậy có mình cô.
Cúc lảng chuyện :
- A, hôm nay cháu phải đi dắt con chó ra cho bằng được, mấy lần bà dặn cháu mang nó ra cho đỡ buồn, nhưng lần nào vô trỏng rồi cũng quên đi mất.
Giọng Phổ trầm xuống:
- Hôm nay vô được, cô nhớ nói với anh Hai cho tôi điều đó, cô nói rõ với anh Hai nếu có thể, thoát được ra đây tôi có thể bảo đảm cho anh Hai được.
- Cháu cũng nghĩ rằng chú Hai đâu có muốn ở trong đó, nhưng hình như mấy người kia ở đây theo dõi chú Hai ghê lắm, chỉ trong nhà mới biết chú đi lính chứ người ngoài cứ tưởng chú còn đi học.
Hai người nói chuyện cho đến lúc mờ sáng, Phổ nhìn rõ đầu tóc Cúc rối bù, hai mắt nàng thâm quầng khiến anh trắc ẩn. Cúc đứng dậy khỏi miệng hầm, cô đi ra cửa vừa đi vừa vuốt lại mái tóc, Phổ nhìn theo, anh thấy Cúc mảnh mai với bước đi lênh đênh lạ thường. Đột nhiên, Phổ thấy lo lắng cho Cúc.
Cúc đã mở cửa, ánh sáng tràn vào, Phổ nhìn rõ ngoài vườn những chiếc lá ướt đẫm sương đêm, mầu xanh êm đềm ngợp mắt, Phổ không thể tưởng tượng được trong cái quanh cảnh dịu dàng này lại có muôn vàn tai biến đang rình rập.
Buổi sáng, Cúc bận bịu với mọi công việc lặt vặt. Phổ đỡ má ra khỏi hầm và đặt nằm trên võng, tiếng má thều thào Phổ tưởng chừng chỉ một cơn gió mạnh giọng nói cũng đứt đoạn. Phổ cố gắng xua đuổi cái ý nghĩ đen tối đi nhưng anh vẫn nghe thấy hơi thở của má khò khè, hình như trong cuống họng của má có gì chặn ngang mà hơi thở phải len lỏi, trườn qua mới thoát được ra ngoài.
Khoảng tám giờ, sau khi sắp xếp công việc chu đáo, Cúc mới vô Phú Hội. Suốt buổi sáng, Phổ quanh quẩn bên má, anh vừa lo lắng cho Cúc, có thể bây giờ Cúc đã về tới Bến Cam, Phổ tưởng chừng như nhìn thấy con đường đất đỏ ngoằn nghèo qua các mảnh vườn, Cúc đi với một nhóm người quen thuộc. Hai bên đường lộ mát rợp bóng cây, những chùm chôm chôm chín đỏ lắt líu trên cành. Từ sáng Phổ không hề nghe thấy súng nổ, nhất định hôm nay mọi sự đều bình yên. Cúc về tận Phú Hội, đẩy cửa vào nhà và gặp anh Huỳnh ngay lối đi trồng bông Hoàng Điệp.
Tất cả mọi sự đều bình yên như khoảng vườn này, cây lá rung rinh trong nắng, không có một trở ngại nào xẩy ra, Phổ cứ nhắc như vậy. Phổ liếc nhìn mẹ nằm trên võng , cái chăn đắp ngang trên người má phẳng lặng, cả người má khuất chìm trong tấm chăn rộng màu xám.
Phổ có cảm tưởng thân thể má mỗi ngày một mỏng dần, sự yếu ớt mỏng manh đến lo âu, đến tội nghiệp. Hình như má đã chợp mắt, Phổ thầm mong má ngủ yên, bởi vì má thức thì chỉ biết khóc, dòng nước mắt chảy dài không nguôi trên những rãnh sâu của khuôn mặt nhăn nheo luống tuổi. Phổ rón rén kéo tấm chăn cao lên khỏi ngực má, rồi bước ra ngồi hút thuốc trước nhà. Qua khoảng sân lát gạch thẻ hẹp, tới vườn trồng cây trái thật rộng, những cây xoài sung sức cành lá vươn dài, những dây trầu lá vàng óng quấn quýt quanh các thân cam cao nghệu, những cây vú sữa to lớn xuề xòa. Cả khu vườn tràn đầy màu sắc trong nắng ấm, những con chim ríu rít bay nhảy. Thốt nhiên, Phổ tiếc nhớ tuổi thơ, mới ngày nào còn được chơi đùa , chạy nhảy qua các vườn cây rộng ở quê nhà.
Gần trưa, Cúc từ Phú Hội ra. Cô khệ nệ cắp một rổ đầy trái cây, một tay dắt con chó vàng bước vào nhà, Phổ vừa nhìn thấy Cúc vội chạy lại đỡ lấy chiếc rổ nặng nề, Cúc lúng túng đến bối rối khi trao rổ trái cây cho Phổ. Mặt đỏ gay vì nắng, mồ hôi đầm đìa nhễ nhại, cô đưa tay khẽ gỡ những sợi tóc dính sát vừng trán. Con chó thè lưỡi thở hồng hộc bên ngưỡng cửa. Phổ bê rổ trái cây đặt gần bộ ván , lúc đó anh mới kịp để ý tới một bó Hoàng Điệp lá xanh mướt đặt sát cạp rổ, những trái sầu riêng sực nức mùi thơm, những chùm chôm chôm chín đỏ, Phổ quay lại đã trông thấy Cúc đứng bên, anh vội hỏi :
- Về nhà có gì lạ không cô ?
Cúc lấy tay áo vuốt mồ hôi trên trán :
- Dạ, cháu gặp chú Hai.
- Anh nói gì không ?
- Dặn chú đừng để người ngoài thấy mặt.
Phổ thở dài, Cúc ngồi xuống bên cạnh rổ trái cây Cúc nhấc bó Hoàng Điệp trao cho Phổ giọng đầm ấm :
- Hoàng Điệp chú trồng đã có bông rồi đấy.
Phổ cầm bó hoa, quàng tay đặt trên ván, anh hỏi dồn Cúc :
- Cô gặp anh Hai lâu không ?
Cúc thở dài ngập ngừng :
- Dạ lâu.
- Anh hai thế nào ?
- Chú hai vẫn khỏe, có điều lo lắng cho bà và chú lắm.
Cúc vừa nói vừa nhìn lại võng, bà Năm vẫn còn ngủ.
- Cô gặp anh Hai ở đâu ?
Cúc thẫn thờ nhấc từng bó chôm chôm đặt xuống nền nhà, giọng nói gượng gạo :
- Trong xóm Hố.
Cúc trả lời cộc lốc, Phổ kịp nhận ra sự hờn dỗi kín đáo của Cúc, Phổ thầm trách mình nóng nẩy quên khuấy chuyện lặn lội vất vả của Cúc. Nhìn Cúc cúi mặt, bàn tay xoải dài trên vỏ trái sầu riêng gai góc, Phổ mỉm cười giọng dịu dàng :
- Đi đường cực lắm hả cô ?
- Thường thôi, chú.
Phổ biết Cúc còn giận dỗi, anh nói khẽ :
- Cúc ra cửa rửa mặt cho khỏe đã, chốc nữa kể cho tôi nghe một lượt tình hình trong đó, tôi muốn biết rõ ràng mọi điều để tính chuyện cho gia đình đỡ kẹt… xin lỗi Cúc, vì nóng biết chuyện anh Hai, nên tôi quên mất Cúc mới về còn mệt.
Giọng nói Cúc âm thầm :
- Ăn nhằm gì chú, tại hỏi dồn quá cháu không biết nói thế nào cho kịp nữa .
Phổ mỉm cười, anh đứng dậy nhìn đóa Hoàng Điệp nằm soài trên mặt ván. Phổ vội cầm bó hoa , rút lấy một bông, anh mê mải nhìn cánh hoa rực rỡ, bông hoa nở tung, tuyệt vời như một cánh bướm bay lên “không đó là một cánh Chim Thiên Đàng”. Thúy An đã nói như thế và cũng chính vì điều đó Phổ đặc biệt yêu thích loài hoa này, anh đã đem giống về trồng ở Phú Hội vào mùa hè năm ngoái. Có điều Phổ ngạc nhiên đến thích thú là cả nhà đều chê loại hoa này, chỉ có Cúc khen đẹp. Phổ quay lại bắt gặp ánh mắt long lanh của Cúc. Phổ vội giơ cao bông Hoàng Điệp lên :
- Cúc có thấy bông này đẹp không ? Như một con bướm vàng vậy, nhưng sách vở thì rắc rối gọi nó là chim Thiên Đàng.
Cúc chợp vui, giọng trong trẻo :
- Nó mảnh mai dễ thương quá.
Phổ cười đùa :
- Hoa mà cứ coi như là người ấy.
Cúc tươi tỉnh, đuôi mắt kéo dài cong vút, Phổ ngạc nhiên, anh không ngờ Cúc có nụ cười lạ lùng như thế, lần đầu tiên suốt từ hồi Cúc về sống với gia đình anh, Phổ mới bắt gặp nụ cười trong sáng đó. Nhưng nụ cười tươi vui đó chỉ chợt lóe lên, vụt cháy như một lằn chớp rồi lại tắt ngấm trên khuôn mặt u buồn của Cúc. Niềm vui của Cúc thật ngắn ngủi khiến Phổ thương hại, anh thấy khó lòng kéo Cúc ra khỏi những mặc cảm, những đau thương đầy ắp của Cúc. Điều mà anh thường nghĩ về Cúc là sự lạc lõng. Cúc cố nương tựa vào cái tình thân thiết của gia đình anh, bỏ quên bớt những cay đắng riêng tư, nhưng cái khó khăn của Cúc mà Phổ nghĩ vẫn là Cúc lỡ được đi học, lỡ biết suy nghĩ và phải cố gắng sống hồn nhiên bên cạnh những chất phát chung quanh. Hoàn cảnh đã đặt Cúc ở vào cái thế khấp khểnh giống cái răng cưa trồi lên, lạc loài quay theo một bánh xe với nhiều răng cưa bình dị : Phổ vẫn thầm cho rằng tới một lúc nào đó hoặc là cái răng cưa lạc loài này phải mài nhẵn để ăn khớp với các răng cưa khác, hoặc bị siết đến văng ra . Dù ở trong trường hợp nào Phổ điều thấy Cúc tội nghiệp hết. Sự suy luận ấy Phổ đã nhận xét qua các sinh hoạt của Cúc lúc còn ở Phú Hội. Cúc không có bạn thân và dường như Cúc bơ vơ, lạnh nhạt với tất cả những người chung quanh. Một điều ngạc nhiên hơn cả là ở Cúc, Phổ thấy có nhiều điểm giống Hằng, giống An, một cái gì tinh nghịch, kiêu kỳ ẩn khuất dưới khuôn mặt buồn thảm.
Thấy Phổ đột nhiên im lặng, Cúc lên tiếng, giọng nói lạnh lung cố hữu :
- Buổi sáng cháu vô trỏng đâu có đi trên lộ.
- Sao thế ?
- Mấy cha đang đắp mô dài dài, đám người vô trỏng đều phải băng vườn hết trơn.
- Băng vườn nguy hiểm lắm !
Cúc thở dài :
- Người ta đi thường mà chú… Người ta vô được thì mình cũng đi được, lần nào vô trong ấy cũng phải nhập bọn với mấy người khác, chứ đâu có đi một mình khơi khơi mà sợ.
Phổ đặt bông hoa trên ván, anh tựa người vào bờ đất hỏi Cúc:
- Cô về tới nhà có gặp ai không ?
Cúc bê mấy trái sầu riêng đặt vào khoảng ván để trống không trải bao đất và nói :
- Cháu về tới nhà vắng hoe, ớn quá phải quay ra kêu chị Hồng đi cùng.
Cúc với tay lấy ấm nước vừa rót vào ly vừa tiếp :
- Nhà cửa bụi phủ đầy, cỏ mọc bừa bãi khắp nơi, cả trong hàng hiên cũng có cỏ mọc. Cháu và chị Hồng ghé vô nhà một chút thấy buồn quá, bèn ra vườn bẻ trái.
Cúc đưa ly nước lên uống rồi tiếp :
- Vườn mùa này nhiều trái, phải chi về hoài được bẻ bán cũng bộn tiền.
Phổ lái câu chuyện :
- Rồi làm sao cô vô được Xóm Hố gặp anh Hai ?
Cúc ngồi xuống bờ đất tiếp tục kể chuyện :
- Cháu và chị Hồng bẻ trái một lát đầy rổ, không biết làm gì nữa, tính ra lộ có gặp ai không, vừa ra tới lộ gặp ngay mấy người quen trong xóm Hố, cháu theo họ vô luôn.
Cúc vừa nói tới đó thì Phổ nghe tiếng gọi yếu ớt của má, anh quay qua võng và thấy con chó đã tìm lại đứng bên võng chiếc đuôi ve vẩy, miệng đánh hơi vào mép võng, giọng bà Năm run run :
- Cúc nó ra hồi nào ?
Cúc đã đứng cạnh võng đáp khẽ :
- Cháu vừa mới ra, có dắt theo con chó.
Bà Năm cố gắng thò bàn tay run rẩy vuốt ve lên đầu con chó và hỏi Cúc :
- Cúc có gặp được chú Hai không ?
- Dạ có.
Phổ xen vào :
- Má thấy đỡ bịnh chưa ?
Bà năm mệt nhọc đáp lại :
- Cũng thấy bớt hơn hồi sáng.
Phổ đẩy con chó lại gần võng hơn :
- Má cứ yên trí, con hỏi Cúc rồi, nó nói anh chị Hai và mấy đứa nhỏ bằng an cả. Má nằn nghỉ đi, để con hỏi rõ Cúc tình hình trong đó rồi bàn với má sau.
Phổ đưa mắt ra hiệu cho Cúc và chỉ ra ngoài hiên. Cúc hiểu ý Phổ, cô nhanh miệng nói :
- Trời đất, mưa quá rồi, để cháu đi nấu cơm mới được.
Cúc nói rồi nhanh nhẹn bước ra. Phổ ngồi nán lại cho mẹ uống nước rồi nói :
- Má có ăn cháo để con nói Cúc lấy lên.
Bà Năm lắc đầu từ chối. Phổ kéo chăn đắp lại ngay ngắn cho má :
- Má nằm nghỉ, để con phụ với Cúc một chút.
Bà Năm tỏ ý bằng lòng. Phổ đứng dậy, anh nhìn thấy tay má vuốt dài trên lưng con chó.
Cúc đang vo gạo nấu cơm ở cửa bếp, Phổ tìm xuống tiếp tục câu chuyện bỏ dở. Anh hỏi Cúc :
- Cô vô tới xóm Hố thấy trong đó ra sao ?
Cúc vừa đổ gạo vào nồi vừa nói :
- Gặp mấy người du kích gác dài dài họ xét giấy tở lôi thôi quá.
Cúc cúi xuống thổi cho bếp lửa cháy lớn rồi tiếp :
- Thấy họ xét hỏi lằng nhằng cháu nói đại là người nhà ở Phú Hội vô thăm chú Hai. Nghe nói tên chú Hai, họ tỏ ra dễ dàng ngay. Một du kích dẫn cháu vô tuốt trong một ngôi nhà ngói và cháu gặp chú Hai ở trỏng.
Phổ dựa lưng vào cửa bếp hỏi Cúc :
- Anh Hai nói gì với cô ?
- Có mặt mấy người lạ, súng ống lu bù cháu đâu có dám nói chuyện gì. Cháu chỉ hỏi thăm thiếm Hai và các em ngồi nói chuyện nhà một lúc lâu, chờ cho mấy người lạ ra cháu mới cho chú Hai biết chú về.
Cúc lấy tay đẩy thêm củi vào lòng bếp :
- Nghe nói chú về phép ngoài này , chú Hai lo lắm. Chú dặn cháu ra nói chú liệu tránh gặp người ngoài và liệu đi lại kín đáo.
Phổ băn khoăn :
- Cô có biết rõ tại sao anh Hai nói thế không ?
- Chú Hai nói rằng nếu họ biết được chú đi lính thì mệt cho chú Hai lắm.
Giọng Cúc lớn hẳn :
- À, chú Hai gửi tiền cho chú… từ nãy đến giờ cháu quên đi mất.
Cúc vừa nói vừa móc túi lấy một gói giấy trao cho Phổ. Phổ vội nói :
- Thôi cô giữ lấy để lo việc nhà, tôi ở trên đó có việc gì phải tiêu đâu.
Cúc lớn tiếng :
- Chú hai nói cháu đưa cho chú, ở nhà thì thiếu gì, chú ở trên đó lương lính đâu có đủ. Hơn nữa mùa này đang mùa trái, cháu về trỏng hoài, nội bẻ trái cây trong vườn bán cũng dư tiền đi chợ, vô bất tử mấy cha đâu biết mà thâu thuế.
Cúc ấn gói giấy vào tay Phổ, khiến Phổ gắt gỏng :
- Tôi nói cô giữ lấy.
Cúc miễn cưỡng giữ lại gói tiền, Phổ dịu giọng hỏi tiếp :
- Theo cô thì anh Hai có kẹt lắm không, cô có nói việc tôi nhắn anh kiếm cách thoát ra đây không ?
- Có, cháu có nói vụ đó, nhưng thấy chú Hai tỏ ý khó chịu, chú nói với cháu rằng “mày về bảo nó lo phận của nó, tao không ngu gì đâu, nó có biết ở đây tao kẹt đủ thứ chuyện hết, vợ con bị bắt buộc đưa cả vào Hang Nai, chứ tao đâu có ngán gì mấy thằng Nghĩa quân ngoài đó”.
Phổ thở dài, Cúc nhìn Phổ giọng nói dịu dàng :
- Chú cũng không nên lo nghĩ quá chỉ thêm khổ thôi, ở đây không phải chỉ có gia đình mình kẹt, ai cũng khổ hết làm sao sống được là may lắm rồi.
Phổ nhìn Cúc cắm cúi nấu cơm :
- Chút nữa có lên nhà gặp má, cô nên nói sơ sơ cho má nghe thôi…
Giọng Cúc âm thầm :
- Cháu đâu dám nói với bà mấy chuyện kẹt của chú Hai, sợ bà lo quá bịnh thêm.
Phổ chép miệng buồn bã :
- Tôi đi, ở nhà chỉ còn biết trông cậy ở cô lo cho má thôi, thú thực với cô, lúc này tôi không còn biết phải lo liệu thế nào cho êm nữa !
- Sao chú cứ nói hoài chuyện đó, cháu chỉ mong chú đi được yên thân thôi, mấy chuyện ở nhà đâu có gì đáng lo ngại hết. Từ trước đến nay xảy ra thường mà, có lo lắm chỉ thêm mệt mà thôi, tới đâu lo tới đó, chuyện gì rồi cũng êm hết. Chú cứ nhăn nhó, lo nghĩ hoài bà thấy được bệnh thêm thì khổ !
Phổ cúi đầu nhìn mấy con kiên bò chênh vênh trên cột gỗ, giọng Cúc nhẹ nhàng :
- Chú biết không, ở nhà bà nhắc chú hoài, ai cũng lo cho chú ở trên đó hết.
Phổ nhìn thẳng vào mắt Cúc dằn giọng :
- Lo là lo ở nhà này, tôi ở trên đó không có gì đáng lo hết cả !
Mắt Cúc chớp mau, cô cắn chặt lấy môi rồi nhìn thẳng Phổ :
- Cháu biết chú cố dấu đủ chuyện cho nhà bớt lo, chú có thể dấu bà được, chứ cháu biết rõ ở trên đó chú cực, lại đụng trận hoài, cháu quen mấy chị vợ lính ở chỗ chú, họ nói trên đó nguy hiểm lắm, họ còn biết rõ đại đội chú mới bị đánh ở Bà Rá nữa. Những chuyện đó cháu đâu có để bà hay được, nhưng chú không cẩn thận lỡ sao thì khổ.
Khói bếp tỏa đầy, Cúc lấy tay dụi mắt lia lịa.
Phổ đứng nói chuyện với Cúc suốt buổi trưa, anh không ngờ Cúc biết rõ mọi chuyện và Cúc đảm đang công việc gia đình đến thế. Vai trò của Cúc trong gia đình anh lúc này không còn phụ thuộc như trước nữa. Cúc chủ động trong mọi công việc, điều này khiến Phổ thầm cảm phục Cúc nhưng cũng không khỏi xót xa, ngượng ngập với chính mình. Phổ thấy hoàn cảnh càng lúc càng tách rời anh khỏi những trách nhiệm mà đáng lý ra anh phải gánh lấy để lo lắng, giải quyết.
Phổ ở lỳ ở Phước Thiền phụ với Cúc săn sóc mẹ cho đến ngày hết phép. Bà năm cũng đã bớt bịnh và có thể đi lại được trong nhà. Đối với mẹ, Phổ cố giữ kín hoàn cảnh của mình để mẹ bớt lo, nhiều lần bà Năm vừa khóc vừa nói với Phổ “má đã già rồi, trước khi nhắm mắt chỉ mong được nhìn thấy con cái đông đủ”. Nhắc tới Huỳnh, bà Năm càng thương hơn “con cái nó chạy tuốt vô Hang Nai không biết ăn ở thế nào?” Phổ và Cúc phải thay nhau an ủi bà Năm, nhưng bà Năm vẫn không thể quên được sự chia cách của Huỳnh và Phổ. Bà nói “tao chỉ biết tao là mẹ chúng bay, mỗi đứa ở một phe rồi đây tao biết bỏ đứa nào nghe đứa nào”.
Nếu Phổ đã dấu kín hoàn cảnh của mình, của anh Huỳnh với mẹ, thì ngược lại anh không hề dấu Cúc điều gì. Những tính toán, những lo âu đều được cả hai chia sẻ cho nhau. Phổ thấy không còn gì ngăn cách anh và Cúc nữa, những khó khăn đã đưa Cúc lại vị trí một cô em gái ngoan ngoãn, đảm đang. nhiều lúc nhìn Cúc, phổ thấy lo lắng không biết đời sống sẽ đưa đẩy Cúc tới đâu. Trước những săn sóc của Phổ, Cúc đã cảm động đến bối rối.
Hôm Phổ từ biệt gia đình để trở lại đơn vị, cả mẹ anh và Cúc đều khóc. Phổ phải cố gắng lắm mới bước ra khỏi nhà.
Buổi sáng đầy mây mù, Cúc đưa Phổ ra tận bến xe, khi xe chạy Phổ thấy rõ Cúc ôm mặt khóc. Ngồi trên xe, Phổ tưởng như mình hỏng khỏi mặt ghế, anh thầm ao ước phải chi anh có thể khóc được như mẹ, như Cúc, có lẽ bớt khổ tâm hơn, băn khoăn với các ý nghĩ rối loạn xe về tới Long Thành mà Phổ không hay. Người tài xế phải nhắc Phổ xuống xe, Phổ như người mất hồn, anh luống cuống bước xuống đất, anh thọc tay vào túi trả tiền xe, tay Phổ chợt đụng vào gói giấy. Phổ vội rút ra và anh nhận ngay được gói tiền của anh Huỳnh, Cúc đã lén nhét vào túi quần anh hồi nào anh không biết.
Về tới Saigon, Phổ chỉ kịp ghé Đằng lấy đồ để đi Bình Dương gấp, Phổ tính ít nhất cũng phải nằm lại Bình Dương một ngày chờ trực thăng đi Phước Long, như thế có thể bị trễ phép vài ngày. Thấy Phổ vội vã, Đằng nhắc nhở :
- Mày không ghé qua An sao, mấy ngày nay gặp tao, em hỏi thăm mày. Khiếp, tao cũng đoán mày có chuyện kẹt dưới đó nên ở lì luôn, nhưng em thì tỏ ra nóng ruột dữ.
Câu nói của Đằng làm Phổ bối rối. Thực ra, Phổ có ý định là cứ lên thẳng Phước Long rồi viết thư cho An là ổn nhất. Phổ có thói quen tránh né mọi người khi gặp chuyện khó xử, anh nghĩ rằng những chuyện rắc rối riêng tư thì mình nên cam chịu và tự giải quyết lấy, Phổ vốn không muốn làm lan rộng các lo lắng vô ích cho người khác và vì thế Phổ thấy ngại gặp An lúc này. Có thể việc bỏ đi bất tử sẽ làm An buồn, nhưng Phổ vẫn tin rằng tình yêu thắm thiết sẽ làm tan biến được những đám mây mù mỏng manh. Phổ cắn môi suy nghĩ rồi nói với Đằng.
- Hay tao viết vài chữ, mày đưa cho An giúp tao.
Đằng nhìn Phổ nghiêm giọng :
- Gấp thế cơ à ?
Phổ đáp cụt ngủn :
- Ừ.
Phổ lấy mảnh giấy để trên bàn viết thư cho An, trao cho Đằng rồi nói :
- Nhờ mày nói với An giúp, tao phải đi bất tử nên không ghé An được, chuyện nhà binh vốn thế, chẳng có gì đáng ngại hết, tao sẽ viết thư cho An sau.
Cũng chính vì muốn tránh mọi phiền phức, Phổ đã ân hận suốt khoảng đường từ Saigon tới Bình Dương. Những khó khăn gặp phải trong dịp về phép lúc này đều lắng cả xuống để Phổ thấy rằng việc tránh né gặp An trước khi đi là bậy. Phổ cố gắng phân tích chính mình nhưng anh vẫn không thể hiểu được cái lý do chính, ngại gặp An hay là thực tình không muốn An phải lo lắng cho mình hay là lúc này anh mang nhiều mặc cảm đến độ hèn nhát.
Phổ phải đợi trực thăng ở Bình Dương một ngày rưỡi, khi anh tới Phước Long thì trời đã về chiều, sương chờn vờn trên những cánh rừng cao su bát ngát, nhìn cái quang cảnh quen thuộc này Phổ thấy chán nản cùng cực. Phổ lại bắt đầu bước trên một đoạn đường dài lầy lội.
Phổ càng khó chịu khi nhìn xuống đế giầy, đất đỏ lầy nhầy dính chặt khiến bước đi càng nặng nề, mệt mỏi. Phổ cố tránh một vũng nước mưa trên mặt đuờng, anh tiến sát vào bờ kẽm gai dựa chân lên gạt bớt đất bùn, nhưng Phổ cũng chợt nghĩ rằng, khoảng đường từ đây vào tới tiền cứ của Trung doàn còn xa, đường còn lầy lội. Thốt nhiên Phổ thở dài, anh tưởng như mình khó có thể rút chân lên khỏi mặt đất bầy nhầy, heo hút tại đây.
Nằm đợi tại tiền cứ Trung đoàn một đêm, Phổ căng võng ngay cạnh nhà kho để ngủ, một người lính thấy Phổ hí hoáy cột võng, anh bước lại cười với Phổ :
- Nằm đây sao được, ông nội ?
Phổ tưởng anh lính đuổi mình, anh đứng sững buông chiếc dây võng, người lính nói tiếp :
- Anh vào nằm đỡ trong hầm tôi, nằm ngoài này nhỡ đêm bị pháo kích thì mệt lắm !
Lòng tốt của người lính lạ xảy ra thật bất ngờ làm cho Phổ lúng túng, suốt cả buổi tối Phổ đã loay hoay tìm một chỗ ngủ, khi vừa định mắc võng thì lại được kêu vào hầm ngủ Phổ bỗng thấy được sự an ủi, anh tưởng như nghe tiếng nói thì thầm trong lòng. “Biết đâu mình không còn gặp nhiều bất ngờ, biết đâu những bất ngờ vụn vặt nhất lại không làm đảo lộn cả hoàn cảnh hiện tại, dù sao thì một thay đổi cũng thú vị hơn”.
Sáng hôm sau, Phổ được quăng tới một căn cứ cách Phước Long lối mười cây số. Bùn lầy khắp căn cứ, đất đỏ bị mưa nhão ra như cháo lỏng sền sệt. Những vũng nước mưa còn đọng vàng khè, vết bánh xe hằn đọng chằng chịt. Bùn lỏng ngập quá đế giầy, từng bước đi nặng nhọc cơ hồ như phải rút chân lên khỏi lớp keo dính. Giầy trận càng trở nên nặng nề, mỗi bước kéo theo cả một đám bùn dẻo quánh. Phổ mới theo đoàn công voa từ Phước Long lên đây buổi trưa, cảm giác đầu tiên buồn nản vì chỗ ở mới, rừng cao su vây quanh mịt mù, trời mùa mưa, mây xà xuống thấp, mặt đất lầy lội bẩn thỉu nhưng đây là nơi dừng quân của Tiểu đoàn sau những tháng hành quân ròng rã. Những chiến công của mỗi cá nhân, của cả tập thể pha lẫn máu, nước mắt, mồ hôi để đánh đổi lấy nơi dừng quân này.
Tiểu đoàn đã tạm yên ở đây vài tháng, nhiệm vụ nhẹ nhàng trấn giữ khu vực phía Bắc tỉnh Phước Long. Từ căn cứ này, tiểu đoàn chỉ phải tung các đại đội, các trung đội đi thám kích trong khu vực. Từ ngày nhập ngũ Phổ mới biết được sự nghỉ ngơi, có một chỗ ở nhiều ngày khác hẳn sự di động thường trực của những ngày tháng lội bộ vừa qua.
Nhìn khắp một vòng căn cứ, Phổ nhận được đây là một đồn lớn của một đơn vị địa phương quân. Ở giữa căn cứ là ngôi nhà lớn kiểu cổ của đồn điền cao su, xếp đầy những bao cát phòng thủ để biến thành một pháo đài chính. Tiểu đoàn dùng ngay tòa nhà đó làm bộ chỉ huy. Chung quanh trại, những dãy giao thông hào từng lớp bao đất. Phổ nhìn đợt mây mù xà xuống khắp cánh đồng bên ngoài. Bỗng nhiên, Phổ thấy an ủi ý nghĩ sẽ có một chỗ ở nhất định trong một thời gian nào đó dù sao cũng dễ chịu hơn sự di động mỗi ngày.
Đại đội Phổ may mắn được nằm lại căn cứ giữ an ninh cho tiểu đoàn, hai đại đội khác phải xa nơi này cả cây số.
Đứng hút thuốc một mình trên sân trại cho đến khi trời mưa lắc rắc Phổ mới chạy về công sự của mình. Đại đội đi nằm đường vẫn chưa trở về, buổi trưa xuống xe Phổ được Thượng sĩ Ngữ, Thường Vụ chỉ cho khu vực của đại đội, anh phải mò vào một dãy công sự tìm ra chỗ ở của mình. Phổ nhận được chỗ ở này nhờ các vật dụng của Tám, của Huân treo đầy trong căn hầm hẹp.
Mưa lớn hột, Phổ nằm dài trên võng qua lỗ chân mai, rừng cây bên ngoài, quanh cảnh thật âm u, dưới các đỉnh cây cao su xanh thẫm khó có thể phân biệt được những thân cây chìm khuất trong màu đen đó. Nằm nghỉ trong hầm, Phổ nghe rõ tiếng léo xéo của đàn bà, con nít, những người vợ con lính hễ cứ thấy chồng đóng tạm ở một nơi nào, lại lếch thếch theo sinh sống.
Buổi chiều, Thượng sĩ Ngữ đổ quạu gắt gỏng với đám vợ con lính khi họ nhào ra tranh nhau đồ của chuyến công voa từ Phước Long lên. Phổ còn nhớ rõ giọng nạt nộ của Thượng sĩ Ngữ, ông ta ví đám vợ con lính như bèo tấm, chồng ở đâu được vài ngày là sáp lại. Phổ nhận ra sự gắt gỏng của thượng sĩ Ngữ chẳng ăn nhằm gì, gắt gỏng để gắt gỏng mà thôi vì chính vợ con ông ta cũng có mặt trong đám người chen lấn bên hông mấy chiếc xe GMC chở thực phẩm. Gắt là bản tính của Thượng sĩ Ngữ, có lần thằng Huân nói bô bô lên rằng “đéo biết gắt gỏng thì đéo làm Thường Vụ được”. Ông Ngữ nghe được chửu Huân :
- Đ.M, mày diễu ông hả ?
Sự kiện đó thốt nhiên biến thành một trò đùa vui vẻ trong sinh hoạt đại đội. Phổ nằm dài trên võng với những ý nghĩ hỗn tạp, những lo lăng về gia đình, về Thúy An, điều đáng buồn nhất là bất cứ chuyện gì xảy ra chính anh cũng không thể giải quyết được.
Các khó khăn sinh ra rồi nằm ì đó, mối bất an thường xuyên cho Phổ. Phổ thầm thì “ngày mai sẽ làm gì, không thể tính được gì cả, như Huân, như Tám”. Mọi người khác đều gắng sống ngoài ước mơ nhỏ bé nhất của họ. Có lần Tám ước ao được ăn một cái kẹo, nhưng giữa cánh rừng biên giới làm sao có thể tìm một cái kẹo bây giờ. Phổ nằm một lúc thì đại đội mở đường đã về tới, nhìn những đồng đội mặc poncho ướt át tập họp giữa sân, Phổ chợt liên tưởng đến những con gà mái mắc mưa đang xù lông rũ nước. Phổ đứng ngay cửa hầm đợi Huân và Tám, nước mưa rơi xuống cây đà gỗ bắn vào mặt lạnh lẽo. Đại đội tập họp kiểm điểm quân số rồi tản hàng mau lẹ. Đám người lướt thướt toả ra phía các hầm, Phổ nghe rõ tiếng Tám la lớn :
- Đ.M, lên rồi hả…?
Tám dứt câu đã lao người đến cửa hầm, Phổ lùi vào trong, Tám lách người vào, vừa cởi poncho vừa hỏi :
- Đi đã không mày, mấy bữa nay chúng nó doọc kỹ quá, đại đội còn sáu, bảy chục con, bị phạt mở đường dài dài…
Tám mắc áo mưa lên cây cột, để súng vào giá gỗ, tháo dây đạn, ngồi xuống sạp cởi giầy. Phổ hỏi :
- Huân đâu mày ?
- Doọc từ chiều qua lận… Đ.M, trễ phép coi chừng thác đó.
- Đại Đội Trưởng hách lắm hả ?
- Đ.M, hồi này cha quạu dữ... Về Saigon đánh đấm kỹ chứ ?
Phổ thở dài :
- Đủ chuyện kẹt… đi đéo đâu được !
Cởi giầy xong, Tám sắp xếp chỗ nằm nhường Phổ một góc sạp. Mưa đã tạnh, qua mái hầm Phổ thấy một đứa gái sắn quần quá bắp đùi đang trút nước mưa hứng được từ poncho vào mấy chiếc vỏ đạn đại bác, ở đầu dãy công sự. Cô gái lạ dẫm chân trên bờ công sự lầy lội bùn đỏ lấm dưới chân làm lộ bắp đùi trắng muốt. Mầu trắng của da thịt đàn bà ngợp mắt, một sự cuốn hút kỳ lạ, nôn nao. Anh đứng ép người vào vách hầm và hỏi Tám :
- Ai vậy ?
Tám nhổm người nhìn ra ngoài rồi nói :
- Đ.M, về dưới chưa đã sao, mới lên đã lạng quạng, thằng Bòn chém thấy mẹ !
Phổ cự nự :
- Thấy lạ thì hỏi, lạng quạng đéo gì !
Tám cười lớn :
- Con Chanh, con gái lớn Hạ sĩ Bé đấy ông nội, thằng Bòn dê cả tuần nay rồi.
Hai người nói chuyện bông lông một lúc bỗng có tiếng kiểng đánh lớn. Tám chồm dậy giục Phổ :
- Lấy gà mêm đi đớp mày.
Phổ xỏ giày, quơ lấy gà mêm của Huân treo trên cột theo Tám xuống nhà bếp đại đội. Hai đứa lãnh phần ăn chung rồi bê cả xuống quán của Hạ sĩ Bé. Quán ăn dưới một hầm lớn đầu dãy công sự, dưới ánh đèn bão vàng vọt, Phổ nhìn rõ đám người quây quần trên những chiếc bàn đóng bằng thùng đạn. Phổ vừa cúi người lọt vào quán.
- Ê, lên hồi nào vậy ?
Phổ nhận rõ được giọng Chuẩn úy Thành, Trung đội Trưởng, Phổ lắp bắp trả lời :
- Hồi trưa, Chuẩn úy !
Tiếng Trung sĩ Bảo lè nhè :
- Trễ phép đéo trình diện hả ?
Phổ ấp úng :
- Dạ… dạ…
Bảo lớn tiếng :
- Lại đây mày !
Phổ đặt chiếc gà mêm đựng cơm xuống bàn hất hàm với Tám, rồi dụt dè bước lại bàn Chuẩn úy Thành. Phổ chờ đợi sự nạt nộ của Trung sĩ Bảo, anh đứng thủ thế. Bảo cầm ly la ve lên rồi hô lớn :
- Uống một cái nghe mày !... Phạt đó !
Mấy người trong quán cười rộ, Chuẩn úy Thành hỏi :
- Mấy ngày ?
Phổ đặt ly xuống bàn quẹt bọt la ve trên mép :
- Dạ… hai.
Thành nói :
- Đ.M, đeo gái cho kỹ vào bị phạt ráng mà chịu nghe.
Giọng Phổ trầm xuống :
- Má tôi bị bệnh.
Mấy người ngồi quanh cười hồng hộc. Bảo la lớn :
- Mẹ ốm, vợ đau, con bịnh…thằng đéo nào về trễ chả vậy, cảm động thấy mẹ !
Chuẩn úy Thành nhìn Phổ :
- Mày đi trễ đếch ăn nhậu gì tới tao hết, ông Kính lơ thì lơ luôn, nếu nổi sùng thì ráng chịu, mấy bữa nay bọn nó lặn đều đều, tiểu đoàn nạo ông ấy dữ.
Thành với tay lấy chai la ve, rót ồng ộc vào chiếc ly Phổ vừa đặt xuống, giọng ồm ồm :
- Có gan đi, có gan chịu, ăn nhằm gì, phải không Phổ ?
Phổ cười gượng :
- Dạ… xin phép lại…
Thành chặn ngang :
- Ừ, lại ăn cơm cho vững bụng, chốc nữa có phải phạt còn đủ sức gồng.
Phổ dơ tay chào rồi quay lại bàn.
Tám đã kêu thêm đồ ăn dọn ra bàn, nó vừa cầm vừa nhìn Phổ :
- Xong rồi chứ ?
Phổ nháy mắt cười trừ. Tám gắp thức ăn đưa lên miệng vừa nhai vừa nói :
- Mẹ kiếp, ở Trung đội thì cái đéo gì cũng xong, đụng cha Đại đội Trưởng cà chớn này mệt hơn ông Hồng nhiều, ông Hồng ngon lắm, hễ bị Tiểu đoàn Trưởng la là ông quạt lại ngay, cha Kính này nhát hơn thỏ đế, đại đội cực lây vì chả.
Phổ đặt bát xuống bàn :
- Cha nào cũng thế, ông Hồng được tiếng chịu chơi, đụng đâu là Tiểu đoàn tống đi, cha này nhát nhưng ông Tiểu đoàn Trưởng chịu, vì thế đại đội mới nằm được ở đây.
Tám cáu kỉnh :
- Nằm ở đây ăn giải gì ? Chỉ tổ mấy cha sai vặt !
Tám đẩy đĩa đồ ăn lại phía Phổ :
- Ăn mày, đi đường mệt dữ sao ?
- Khi không làm biếng ăn quá.
- Còn nhớ em hả ?
Phổ cười đưa mắt về phía quầy tính kêu nước uống, Phổ thấy thấp thoáng sau tủ thuốc lá, một mái tóc dài anh gọi lớn :
- Cho chai coca đi.
Tám quay lại nhìn cô gái :
- Đ.M, coi bộ mày chịu dữ.
Phổ cãi lại :
- Thấy lạ thì phải coi cho kỹ.
Tám gật gù :
- Giữa cái bãi sình này thì nhất nó rồi, coi cũng mát mắt. Cha Bé bưng con gái lên để lột lính đó mày, thằng Bòn coi bộ mết dữ.
- Dính chưa ?
Tám nhăn trán có vẻ suy nghĩ :
- Hình như con bé cũng khoái nó.
Cô gái mang chai coca tới đặt mạnh xuống bàn rồi ngúng nguẩy quay đi. Thốt nhiên, Phổ thấy vui lây vì cái trò đỏng đảnh của con bé. Phổ cười hỏi Tám :
- Bộ đắt giá lắm sao ?
- Đ.M, đã bảo cha Bé dùng nó để dụ lính mà, cả chục thằng ve vãn, nhưng coi chừng có đứa ẵm mẹ nó đi thì hốc hác.
- Coi bộ thằng Bòn cũng ngon chứ mày ?
- Ngon đéo gì, mấy vụ đập lộn, đánh giặc thì nó tới chứ vụ gái… thằng bết nhất.
Phổ gật gù :
- Nó tán đúng sách đó mày, giữa cái đám cứ xâu xâu thằng nào dụt dè là sáng nước nhất.
Phổ chợt cười thầm, anh nghĩ cứ đứng ngoài mà bàn thì đâu vào đó lắm, chính mình đụng chuyện thì lại kẹt tùm lum. Phút giây Phổ nhớ tới Thúy An mà lo ngại. Chiều qua ở Phước Long, Phổ đã viết thư cho An, anh cố biện bạch về sự vội vã của mình, nhưng biết đâu chuyện đó sẽ êm xuôi? Phổ thấy rõ khi đang yêu, người ta dễ bị nhức đầu về mấy vụ lặt vặt, tình ái vừa an ủi, vừa bấp bênh, nhưng tất cả những điều đó lại tạo nên hạnh phúc. Phổ đột nhiên im lặng. Tám hỏi :
- Cũng tính nhào vô sao mày ?
Phổ đáp cụt ngủn :
- Không.
- Về dưới có chạy được cái vụ của mày không ?
Phổ chép miệng :
- Chạy quái gì, đợi ở đây chuyển đơn còn mệt.
Hai người ngồi nói chuyện được một lúc; Bên ngoài trời đã tối, Chuẩn úy Thành lớn tiếng hỏi :
- Mấy giờ rồi bay ?
- Tám giờ thiếu hai mươi.
- Uống đại đi còn tập họp.
Tám càu nhàu :
- Mẹ, về đây tối đéo nào cũng phải tập họp, nghe xếp hét thối bố nó tai.
Phổ xoay xoay ly nước, giọng lo lắng :
- Ông Ngữ điểm danh hay quan lớn ?
- Ông Ngữ còn khá, bữa nào gặp chả thì mệt cả đám.
Tám đứng dậy xếp cà mêm :
- Về mày.
Phổ bước theo Tám chui ra khỏi quán; Đêm tối dịu dàng, gió thật mát, quanh trại ánh đèn hắt ra từ các công sự, một vài nơi soi rõ những vũng nước mưa nhơ nhớp. Tám chui vào hầm cất cà mêm, Phổ đứng lại trên bờ công sự quan sát trong vùng tăm tối, những cánh rừng đen xẫm mấp mô dưới nền trời; Tiếng radio mở hết cỡ, giọng ca èo uột “trùng dương nổi sóng, lênh đênh bọt nước, lắc lư con tàu đi…”. Tiếng hát chưa dứt Phổ đã nghe thấy một hồi tu huýt réo lên. Tiếng tu huýt làm Phổ khó chịu, anh liên tưởng ngay tới hồi còn thụ huấn ở quân trường, tiếng kêu đanh đá này đã hành hạ Phổ đến độ anh căm hờn âm thanh đó.
Từ các công sự những người lính lổm ngổm chui lên như một bầy chuột, có người vừa đi vừa gài nút quần, tiếng nói lao xao trên khoảng sân lầy lội. Nhiều người bước nhằm vũng nước phát ra âm thanh phì phọp; Tiếng la lối chửu thề rộ lên. Trên bờ công sự, mấy người vợ con lính đứng ngồi từng đám. Tám kéo vai Phổ ra giữa sân, Phổ hỏi :
- Mấy mẹ khoái xem tập họp điểm danh lắm sao ?
Tám ngoái cổ nhìn lại :
- Tối đéo nào mà chả thế, thú vui công cộng mà.
Tiếng la hối thúc của Thượng sĩ Ngữ vang lên :
- Chạy lẹ, Đ.M, dỡn hả ?
Giọng Bòn trây trúa :
- Phần nào thôi chứ Thượng sĩ, đụng đâu đá đó bùn văng cùng hết, dơ quần, lấm áo bả giặt sao kịp !
Tiếng cười rầm rộ, Thượng sĩ Ngữ quát lớn :
- Đ.M bọn bay, ổng xuống chết mẹ cả đám !
Các trung đội tập họp dài dài giữa khoảng sân lầy lội. Những trung đội phó kiểm điểm quân số, tiếng than thiếu người trong từng tiểu đội. Từng Trung đội báo cáo quân số với Thượng sĩ Ngữ, ông Ngữ tay cầm đèn pin rọi lên một tấm giấy nhỏ và hí hoáy ghi nhận số quân của mỗi trung đội, vừa ghi ông Ngữ vừa la :
- Sao thiếu qúa cỡ vậy nè… các trung đội phó ghi luôn tên mấy đứa doọc cho tôi.
Màn điểm danh thứ hai xảy ra cẩn thận hơn lần đầu nhiều, từng người vắng mặt được ghi rõ tên trên giấy.
Ông Ngữ lầm bầm :
- Đ.M, phạt kỹ như thế mà bọn nó vẫn đông.
Có tiếng đùa giỡn trong hàng quân :
- Lính chịu chơi mà.
Ông Ngữ quát :
- Đ.M, đứa nào giỡn đó ?
Tiếng nói xì xầm :
- Im cha nó mồm đi, lộn xộn hoài chả bắt đứng đến khuya bây giờ.
Ông Ngữ tổng cộng quân số đại đội, càu nhàu :
- Thiếu mẹ nó hai mươi mốt con.
Tiếng xầm xì trong hàng quân :
- Lội lâu qúa không được đi phép thì phải lặn.
- Ê, Trung úy tới bọn bay.
Phổ liếc mắt về phía hầm đại đội, anh thoáng thấy Trung úy kính bước tới, bóng dáng cao ngòng đen sẫm trong đêm tối. Cả Đại đội im bặt, những người lính tự ý so hàng, nghe rõ đế giầy di chuyển lép nhép dưới mặt đất lầy.
Trung úy Kính bước theo hàng quân, Thượng sĩ Ngữ dõng dạc hô “Nghiêm” trình diện đại đội. Phổ chợt thấy thương hại ông Ngữ, nhiều khi anh thấy ông Ngữ phải làm những thủ tục cứng nhắc trong cái không khí thiếu trang trọng đến tức cười.
Thượng sĩ Ngữ báo cáo quân số, Trung úy Kính chặn ngang giọng gay gắt :
- Tại sao thiếu nhiều như vậy, ông kêu mấy ông Trung đội Trưởng.
Bốn sĩ quan Trung đội trưởng đứng một góc bước lại. Trung úy Kính nạt nộ :
- Các ông làm thế nào mà để bọn nó đi dữ vậy, các ông có biết rằng ông Tiểu đoàn Trưởng vừa quạt như tát vào mặt tôi không ?
Kính quay qua hỏi Ngữ :
- Trung đội nào đi nhiều nhất?
Ánh đèn pin lóe lên trên miếng giấy, giọng Ngữ ngập ngừng:
- Trung đội Ba.
- Anh nói rõ cho tôi biết bao nhiêu đứa vắng mặt?
- Tám người.
- Ghi tên chúng nó chưa?
- Dạ rồi.
Kính hằn học với các Trung đội Trưởng:
- Tôi nói với các ông lần chót, các ông liên đới trách nhiệm, tôi đề nghị nhốt các ông!
Kính bước gần tới hàng quân lớn giọng:
- Tôi báo cho các anh biết, Đại đội bị phạt mở đường nửa tháng, ngoài những công tác thường xuyên, kích đêm giữ an ninh cho tiểu đoàn, tôi nói đàng hoàng các anh không nghe, từ nay bất kể anh nào lặn, tôi sẽ phạt thật nặng. Các anh là người chứ không phải thú nói không biết nghe!
Có tiếng xầm xì trong hàng quân, Kính hằn học quát lớn:
- Đứa nào phản đối bước ra đây… tôi phạt cả đại đội.
Hàng quân im lặng, Phổ nhìn thấy trước mặt những thân hình bất động sừng sửng.
Kính nạt nộ cả Đại đội lối mười lăm phút, Phổ nghe thấy tiếng thì thào từ phía sau :
- Đ.M, la hoài, mấy thằng ở nhà cũng nghe chửi.
Kính chống nạng vào sườn gay gắt :
- Những đứa nào lặn mới về, đi phép trễ bước ra đây coi.
Cả hàng quân vẫn không nhúc nhích, Kính quát lớn :
- Tôi nói bước ra !
Hàng quân vẫn bất động, tiếng nói xì xào :
- Đ.M, đứa nào lặn thì bước ra lẹ đi, để cả đại đội bị hành sao ?
Tiếng Bòn nói nhỏ :
- Đ.M, ra thì ra sợ đéo gì.
Bòn tách khỏi Đại đội bước lên vài bước, lôi theo mấy người khác tách khỏi hàng quân. Phổ im lặng bước theo mấy người phạm lỗi, Kính thét :
- Đứng qua bên này coi.
Bòn dẫn đầu đám người bước về phía trái, họ tự động đứng thành một hàng ngang. Ngữ lên tiếng :
- Tám đứa.
Kính bước sấn lại đám lính phạm lỗi, nắm lấy áo người đứng đầu hỏi lớn :
- Tội gì ?
- Dạ nhảy dù.
Tiếng cười rúc rích trong hàng. Kính nóng giận thoi luôn vào mặt người lính, anh lính la ôi ối, cố gắng tránh né. Phổ thầm hiểu Kính muốn dằn mặt đại đội, anh lo lắng đợi tới phiên mình. Kính bước tới hỏi từng ngưòi, đấm đá túi bụi, Phổ hốt hoảng khi thấy Kính đứng trước mặt. Kính không thèm hỏi nữa, đấm ngay vào mặt Phổ, trái đấm vượt qua lưỡng quyền làm Phổ ngã chúi, hai tay vội soài ra chống trên mặt bùn lệt bệt. Bòn đứng chót hàng. Kính bước tới vừa tung trái đấm Bòn đã nhanh nhẹn lách mình tránh được. Kính đấm hụt loạng choạng muốn té.
Tiếng cười nổi lên phía đại đội. Kính hậm hực hét lên :
- Đứng nghiêm.
Bòn nhúc nhích đôi giầy trên mặt đất. Kính đấm xối xả vào mặt Bòn, làm hắn dội ngược, lảo đảo muốn té.
Kính phủi tay lớn tiếng :
- Cà chớn hả, cho tụi bây chết luôn, qùy xuống đó.
Tiếng xì xào nổi lên trong Đại đội, mấy người phạm lỗi nhúc nhích đôi chân, Kính xốc tới hét lên:
- Qùy xuống.
Mấy ngưòi đứng đầu hàng vội vàng qùy ngay xuống mặt đất lầy lội, Phổ qùy theo, anh thấy rõ đất lún trên đầu gối lành lạnh, một viên cuội nào đó trồi lên, khiến Phổ phải nhích đầu gối. Anh nghe rõ tiếng cười rúc rích trong đám vợ con lính đứng ngồi ở bờ công sự. Có tiếng trẻ con trong trẻo :
- Má… Má… Ba phải qùy… Má.
Tiếng cười rộ, tiếp đó tiếng đứa trẻ khóc thét, Phổ biết chắc đứa nhỏ bị mẹ nó đánh. Có tiếng thì thào bên cạnh :
- Con mày hả Ngàn ?
Trung úy Kính quát :
- Không chịu qùy hả ?
Kính xốc tới phía Bòn, đấm đá túi bụi, Bòn loạng choạng té nhào trên mặt đất. Tiếng cười rộ lên trong đám vợ con lính. Bòn vội vốc một nắm bùn thẳng tay tung đại về phía bờ công sự, tiếng đàn bà trẻ con la chói lói. Trung úy Kính nổi nóng tung giầy đá nhằm vai Bon khiến hắn chới với, ngã chúi xuống mặt đất lầy, nhưng hắn đã đứng ngay dậy, xông tới trước mặt Kính :
- Trung úy ngon giết tôi đi !
Kính lùi lại, gằn giọng :
- Mày tính đánh nhau tay đôi với tao hả ?
Bòn vẫn hậm hực :
- Ông ngon đánh đi, tôi có thích ở đây đâu, tôi xin qua Thám Báo...
Ngữ và mấy Trung đội Trưởng nhào tới can khéo. Chuẩn úy Qúy kéo Bòn nói lớn :
- Vừa thôi chứ Bòn !
Bòn đổ quạu :
- Ổng muốn giết tôi mà.
Kính hậm hực nhưng đã dang ra xa, nói với Ngữ :
- Ông cho Đại đội tản hàng, mấy đứa này cho qùy luôn.
Kính nói vớt vát vài câu rồi bỏ đi. Qúy ấn vai Bòn :
- Đ.M, nóng ẩu, thôi qùy xuống mày.
Bòn hạ giọng :
- Qùy thì qùy ăn nhằm gì !
Ngữ cho Đại đội tản hàng, những người lính nhào tới vây quanh những ngưòi bị phạt, tiếng nói ồn ào.
Giọng Ngữ lè nhè :
- Ê Bòn, mày tính đớp ổng hả ?
Bòn cộc cằn :
- Đớp gì, làm quá chịu đâu được !
Mấy người lính bu lại ồn ào, một lát rồi bỏ đi. Hạ sĩ Bé từ trong hầm chạy trở ra, đến gần Bòn la lối :
- Đ.M mày nhe Bòn, mày ngon liệng bùn tao coi.
Bòn im lặng, tiếng cười hồng hộc nổi dậy, một người đến cản Bé, giọng đùa cợt :
- Thôi mà hạ sĩ, nó trót dại liệng trúng bả, con Chanh; Ông tha cho nó.
Tiếng cười rộ, một giọng chen vô :
- Bòn ơi , chết mẹ mày rồi, liệng trúng mẹ vợ, liệng trúng đào, mất vợ là cái chắc.
Bé vẫn lầm bầm chửu thề, Qúy bước tới can :
- Thôi Hạ sĩ, bỏ qua đi, nó nóng ẩu tính đớp cả ông Kính, chấp nó làm gì.
Bé phân trần :
- Chuẩn úy coi, nó nhè đàn bà, con nít liệng ẩu, dơ hết trơn…
Tiếng cười hinh hích nổi lên sau mỗi câu nói, Phổ vừa nhích đầu gối ê ẩm vừa cười thầm trong bụng, chợt ngó thấy Ngàn, anh bỗng tội nghiệp dùm hắn. Phổ quay sang hỏi khẽ :
- Lặn đi đâu mà bị phạt thế này ?
Giọng Ngàn thản nhiên :
- Đ.M, lên Phước Long mua mấy món đồ lặt vặt cho vợ bán.
- Bả không đi được sao ?
- Mắc thằng nhỏ.
Câu chuyện trên sân từ những hậm hực, tức tối dần dần chuyển qua trai gái, dâm dật. Phổ nhìn thấy ngững đợt mây trắng lạt nhạt trôi nổi trên nền trời tăm tối. Mấy người bị qùy gối hai mươi phút thì Thượng sĩ Ngữ trở ra cho phép đứng dậy. Phổ chống tay đứng lên, tay xoa nhẹ trên hai đầu gối ê ẩm.
Chuẩn úy Qúy lớn giọng :
- Đi nhậu bọn bay.
Qúy nổ tiếng trong đại đội là người phóng khoáng, sống gần binh sĩ nhất. Một người bị phạt reo mừng.
- Bữa nay Chuẩn úy chịu chơi quá ta.
Qúy cười quay lại :
- Chịu chơi đéo gì, tao góp một phần, tụi bây góp một phần.
- Đồng ý.
Mấy người ồ ạt kéo nhau đi, Bòn ngập ngừng đứng lại, Qúy thét :
- Ê Bòn, đi chứ mày, ngại đéo gì, lỡ liệng thì vô xin lỗi.
Mấy người cười rộ, Bòn nhép miệng ấp úng :
- Kỳ quá ông ơi !
Qúy lộn lại nắm tay Bòn lôi đi.
- Kỳ mẹ gì, mày liệng vợ mày không được à ?
Bòn nói lảng :
- Tôi ngại ông Bé.
- Ba vợ mày để tao lo.
Mấy ngưòi kéo nhau vào quán Hạ sĩ Bé. Bòn lưỡng lự chưa kịp chui vào hầm đã bị Qúy kéo ấn vô. Qúy la lớn :
- Cho la ve uống nghe.
Bòn then nét ngồi xuống một ghế thấp, nó mắc cỡ ngang. Hạ sĩ Bé mang mấy ly đá đặt lên bàn, vừa trông thấy Bòn, Bé cự nự :
- Tao tưởng mày đi luôn không vác mặt vô đây nữa…
Qúy chặn ngay :
- Ê, tụi tôi vô đây uống nhe, mấy vụ lộn xộn dẹp hết.
Bé nhìn Qúy :
- Chuẩn úy tính…
- Tính mẹ gì, ai không biết nó nóng hoảng, ông chấp nhứt em út sao ?
Bé quay vào lấy thêm ly và la ve. Mấy người đùa cợt.
- Ê Bòn, xin lỗi ba vợ đi chứ !
Bòn vẫn làm thinh cúi mặt. Phổ liếc về phía quầy hàng và thấy mặt Chanh, phụng phịu đầy vẻ giận dỗi. Bé mang la ve ra, tiếng mở chai lốp bốp, la ve được rót ồng ộc vô ly sủi bọt trắng xóa. Qúy kéo chiếc ghế, níu vai Bé ấn xuống :
- Uống luôn nghe ông ?
Bé có vẻ nể Qúy, lúng túng ngồi xuống, Qúy cầm ly lớn tiếng :
- Cụng ly tụi bay.
Tiếng nói vui vẻ ồn ào. Qúy hối :
- Bòn, cầm ly mày.
Bòn dụt dè đưa tay với lấy ly la ve.
Ngàn la lớn :
- Hạ sĩ cụng ly huề với nó.
- Huề con mẹ gì, tha cho con rể.
Nhiều người cười rộ. Họ ép Bé cụng ly với Bòn, tiếng vỗ tay lốp đốp. Qúy quay vào la lớn :
- Đem gì ra nhậu coi.
Bé lật đật đứng dậy đã bị Qúy ấn xuống :
- Ngồi đây, tối nay uống gục luôn, đứa nào còn tỉnh cứ việc bước qua xác tao.
Một người lên tiếng :
- Tụi tôi còn đi gác.
- Mấy đứa ?
- Hai.
- Cho hai đứa bay tự do.
Bàn nhậu càng lúc càng hào hứng, đám người hết uống la ve đổi qua rượu đế. Chiếc ly nhỏ đầy ắp rượu đế được chuyển xoay vòng. Mọi người ăn nhậu, nói chuyện thoải mái, Bé cũng hết còn giận Bòn, ông ta khen nó :
- Tui nói thật, hồi nãy giận thằng Bòn cành hông, nhưng thấy nó hối cũng tội.
Nhiều người cười nói ồn ào, có người đề nghị :
- Hạ sĩ kêu con Chanh ra gả phứt cho rồi.
Qúy chặn ngay :
- Vừa phải thôi, Đ.M, nhậu với tao đừng có loạng quạng.
Phổ ngồi uống chếch choáng. Anh nhìn quanh lướt qua những khuôn mặt đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, miệng trơn bóng. Phổ thấy mọi người đều dễ mến. Trong hơi men người ta dám nói thẳng với nhau, cá tính bày tỏ. Thốt nhiên mọi bực tức, mọi lo nghĩ trong lòng vơi đi, Phổ thấy thích cái tính liều lĩnh của Bòn, cái nghênh ngang của Qúy, sự khiêm nhượng của Ngàn. Một giây Phổ tưởng mình tan loãng trong cái tình thân hữu đó. Ý nghĩ này cũng gây cho Phổ tự tin và được an ủi.
Hai người lính mắc gác dời khỏi, một người yếu rượu đã gục đầu xuống bàn. Trong ánh mắt chập chờn, Phổ nhìn thấy mái tóc lởm chởm đầy bùn đất đặt cạnh một mớ xương “sý-oắt” bầy nhầy. Có ngưòi đề nghị Hạ sĩ Bé ca vọng cổ, Bé cao hứng loạng choạng đứng lên vỗ tay, lè nhè :
- Ê, im hết… im hết… tui ca nè… ca tặng Chuẩn úy Qúy và mấy anh em…
Tiếng vỗ tay át hẳn giọng nói, Qúy cười hô hố :
- Hạ sĩ Bé ngon mà.
Bé lấy hơi, gân cổ :
- “Chàng là từ hậu phương đồng chua nước mặn hay nơi chốn biên cương gió lộng mây ngàn…”.
Mỗi lần Bé xuống câu, tiếng tán thưởng, tiếng vỗ tay rầm rộ. Một người trong bọn la lớn :
- Không được, không được…ca mà không có đờn là không được.
- Ê Bòn, quên ngón nghề hoài sao.
- Bắt nó về hầm xách cây “ghi-ta” qua gấp.
- Đứng lên mày.
Bòn lao đao đứng dậy chui ra khỏi hầm. Lúc đó Phổ mới kịp hiểu rõ lý do con Chanh thích Bòn.
Bòn xách cây “ghi-ta” cũ tróc sơn trở lại, nó ngồi ngay ngắn trên ghế so giây, những tiếng đàn rời rạc loãng tan trong căn hầm ấm áp. Bòn so giây đàn xong, nó ôm cây “ghi-ta” nơi ngực quay ra hỏi trống không :
- Ca bản gì đây ?
Hạ sĩ Bé cao hứng :
- “Nếu anh là lính chiến”.
Tiếng vỗ tay xen lẫn tiếng nói :
- Được lắm… Được lắm.
Qúy cười lớn :
- Bứng mẹ nó chữ nếu đi, anh là lính chiến, anh là lính chiến đây em ơi !
Mọi người cười rộ. Bòn dạo đàn âm thanh ngọt ngào cuồn cuộn như nước lũ. Phổ ngồi từ phía trái ngắm Bòn qua vị thế nghiêng. Anh thấy Bòn quyến rũ kỳ lạ. Đèn chiếu sáng một phần khuôn mặt, những sợi tóc phất phơ dưới vầng trán, tay lướt trên phím đàn. Điệu bộ của Bòn thật đam mê, hình như nó đặt cả tâm trí vào mười đầu ngón tay, âm thanh rung lên đến tê buốt. Hạ sĩ Bé vô câu, “nếu anh là lính chiến, em sẽ là người em gái hậu phương gửi ra tiền tuyến ngàn vạn cánh thư hồng… Anh chưa trở lại em vẫn là cô gái chưa chồng… Mỗi tuần em viết gửi anh ba mầu giấy hồng, xanh, trắng…”.
Phổ liếc mắt vào phía quầy hàng. Anh thấy Chanh chống tay lên cằm say đắm nghe nhạc, phút giây Phổ nhớ tới Thúy An, anh thầm ao ước cái hạnh phúc hiện tại của Bòn. Qua lỗ hầm của chỗ ăn, từ phía xa những trái hỏa châu rớt xuống, để lại những vệt khói oằn oèo trên nền trời đen tối mênh mông.

No comments:

Post a Comment