6
Phổ học ở Thủ Đức được hai tuần thì Cúc lên thăm vào sáng chúa nhật, ở khu tiếp tân; Cúc cho biết tình hình Phú Hội càng lúc càng gay go hơn, cả gia đình chạy tuốt vô Hang Nai ở, chỉ có Huỳnh ra hoạt động ngoài xóm Hố, Cúc chạy đi chạy về, lo việc vườn tược, bẻ cây trái bán ngoài Phước Thiền; Cúc cũng nói rõ, khi cô ra Phước Thiền nhận được thư Phổ là lên ngay Thủ Đức, mọi sự đi lại của Cúc đều phải lén lút vì sợ có người theo dõi. Từ ngày Huỳnh cho mấy người cán bộ biết anh từ Phổ, cắt đứt mọi liên lạc, việc theo dõi lúc đầu gắt gao, lâu rồi cũng nhạt.
Cúc được đi lại dễ dàng vì lúc này Huỳnh cũng đã có thế trong Ủy Ban Xã. Nhắc tới mẹ, Cúc ấp úng, Phổ biết ngay mẹ bị bịnh. Cúc đưa Phổ một số tiền nói là của anh Huỳnh gửi cho Phổ. Phổ cầm lấy và bỗng tủi thân. Điều đặc biệt nhất, Cúc khuyên Phổ ráng ở ngoài này, dù sao cũng đỡ nguy hiểm hơn, về Phú Hội rồi cũng phải nhận súng hoạt động cho Mặt Trận. Gặp Cúc, mọi lo lắng như chồm cả dậy, anh liên tưởng ngay tới mặt trời gay gắt đổ lửa trên các bãi tập trơ trụi sỏi cát, khiến da thịt cháy bỏng.
Chúa nhật kế tiếp An lên thăm. Hôm đó, trung đội Phổ phải đi giữ an ninh tiếp tân ở ngoài Chợ Nhỏ. Mấy người bạn ra tìm Phổ, khi vào tới, Phổ muốn reo lên lúc nhìn thấy Thúy An. Phổ đưa An ra khu vườn trung đội anh đang canh gác ngoài Chợ Nhỏ.
An đăm đăm nhìn Phổ, cô không còn vui đùa như trước. Phổ nhớ rõ khi An ngồi xuống chiếc võng đong đưa trong vườn cây, An đã nói “trông anh hốc hác…”, một vài băn khoăn vương vấn trên khuôn mặt hồn nhiên, làm Phổ trắc ẩn. Lúc Phổ cúi xuống phụ An lấy trái cây trong giỏ, An ngước lên :
- Anh đầy mùi nắng !
- Nồng nàn…
An dẩu môi nhõng nhẽo :
- Khét lẹt…
Phổ nhìn vào đôi mắt tinh anh của An và tưởng chừng đuối ngã, anh thấy rõ nơi má An những lông tơ lướt mướt ngây ngất đến nôn nao, Phổ đưa tay kéo mạnh vai An hôn lên đôi môi nồng thắm. Hình như răng của An đã chạm răng Phổ, thốt nhiên anh có cảm giác tê buốt và nhớ ngay lần cắn chốt lựu đạn ở trận Bà Rá (Phước Long). Phổ vội buông An ra khiến cô chới với, anh cố đàn áp ý nghĩ của mình, nhưng vẫn không cưỡng nổi. Đôi mắt của An mất hồn lạc lõng giống đôi mắt của tên Việt Cộng bị giết. Ý nghĩ bất ngờ đau đớn đổ đến khiến Phổ bối rối. An giận dỗi về thái độ lạ lùng của Phổ, cô nhìn vào mắt anh dằn giọng :
- Anh nghĩ gì ?
Phổ giật mình lúng túng :
- Yêu em.
An im lặng một lát rồi nói như sắp khóc :
- Anh đã dối em… anh đang nghĩ gì ?
Phổ cười lớn như lấn át :
- Sao đa nghi thế, không nghĩ gì cả… không ngờ có những lúc như thế này.
Giọng An gay gắt :
- Không nghĩ… không nghĩ gì, tại sao anh lại nói em đa nghi, em nghi gì cho anh ?
- Thấy em đột ngột thắc mắc đủ điều thì nói vậy !
An cáu giận xoay ngang :
- Em không muốn anh sàm sỡ như vậy.
An đã khóc, Phổ vớt vát :
- Yêu em mà…
- Yêu thế hả… anh coi thường… anh khinh em…!
Phổ nắm chặt đôi vai run rẩy của An :
- Không tin anh sao ?
- Em biết anh dấu diếm em, tại sao anh không nói thẳng với em, anh không tin em thì có…!?
Phổ nhún vai đáp gọn :
- Vài khó khăn đột nhiên ở đây…
Phổ cố gắng bày tỏ những nguyên cớ để trấn an, nhưng Phổ vẫn đọc thấy sự nghi ngờ trong đôi mắt cong vút của An, anh nói khẽ với cô :
- Anh yêu sự nhạy cảm của An, nhưng nhiều khi khốn khổ về điều đó.
An cướp lời :
- Hồi này anh thay đổi nhiều lắm… nếu em có một vài nhạy cảm nào đó thì cũng khó lòng hiểu rõ anh nữa.
Nhìn vẻ mặt khổ sở của Phổ, An im lặng rất lâu rồi ngẩng mặt nhìn Phổ dịu dàng :
- Anh không nhớ rằng cảm giác của tình ái là thường xuyên bất an, thường xuyên xung đột và những điều đó làm chúng ta yêu nhau sao ?
Phổ chợt khó chịu vì giọng sách vở của An, Phổ thầm thì :
- Thú thật với An anh mỏi mệt quá rồi…
Những lần gặp gỡ Cúc, An với những kỷ niệm vui buồn đã làm Phổ lết qua những tuần lễ mệt nhọc của thời gian học tập. Tới tuần thứ năm, vừa di chuyển từ đồi Ba Mươi về trường đại đội phải vượt qua một con suối nước sâu ngang bụng. Mọi người ướt như chuột lột, tập họp trước doanh trại. Lúc đó trời đã tối, Phổ thấy mệt mỏi quá chừng. Từ chiều đến giờ, phải đánh vật với bài học chiến thuật , cuộc tấn công từ đồi Tự Tin qua đồi Ba Mươi rồi mới di chuyển về trường.
Tất cả những hình ảnh mà Phổ nhớ được , là nỗi chơ vơ của cái cây lớn trên đồi Ba Mươi, Phổ mong được tản hàng về nghĩ.
Nhìn đồng đội ướt át, bẩn thỉu đứng quanh, Phổ thấy thương xót cho họ, cho chính mình. Phổ thầm nghĩ, chẳng ai định được đời sống cho mình, tất cả mọi người đều vùng vẫy tuyệt vọng trong cái sắp xếp kỳ bí…
Người sinh viên sĩ quan điều hành bước tới trao cho người tuần sự mảnh giấy. Nhiều tiếng xì xào trong hàng :
- Đ.M, nhiều chuyện thế ?
- Lại có thằng hốc hác rồi !
Ngưòi sinh viên tuần sự bước tới ngọn đèn, ánh sáng vàng vọt soi rõ khuôn mặt, hắn soi mảnh giấy đọc qua rồi gọi :
- Sinh viên Võ Văn Phổ.
Phổ giật thót người anh băn khoăn “không biết chuyện gì nữa đây ?”.
Mấy người bạn xì xào :
- Mệt rồi Phổ ơi !
Phổ tách khỏi hàng quân bước ra nhận lấy tờ giấy, anh liếc mắt đọc qua và chợt choáng váng, ngày mai lên trình diện phòng An Ninh.
Phổ đứng trân trối dưới ánh đèn, anh lo lắng không biết chuyện gì đã xảy ra cho mình.
Sự lo âu kéo dài suốt buồi tối, Phổ không còn thiết ăn cơm nữa. Anh xuống Hội quán Sinh viên chọn một nơi thật khuất trên lầu uống cà phê. Phổ vẫn chưa tìm được lý do chính khiến mình bị An Ninh gọi. Điều này càng hành hạ tâm trí Phổ, nhiều ý nghĩ xung đột trong lòng. Có thể chuyện liên hệ với anh Huỳnh, nhưng Phổ đã có những hành động nào để đáng buộc tội, đó là tình anh em ruột thịt, sự thực nếu có được giải bày đầy đủ, có thể biện minh cho mình được không ? Luật lệ vốn tàn nhẫn, vốn lạnh lùng, nó là một thứ nguyên tắc chiếu theo một số điều khoản, không có gì bảo đảm, không có gì bày tỏ được sự vô tội của mình. Luật pháp chỉ cần một yếu tố liên hệ với Việt Cộng là đủ rồi, có thể mình sẽ bị tra khảo, tống trả về đơn vị, hay ra tòa không chừng. Quả thực anh Huỳnh đã hoạt động cho địch, mình là em ruột, Cúc đã lên thăm mình một lần, đưa tin và nhận tiền của anh Huỳnh, đó là tội lỗi, những tội lỗi thật rõ ràng như thế. Phổ vừa thấy mình vô tội, vừa thấy mình đầy rẫy tội lỗi. Phổ cố gắng lẩn tránh bè bạn, những thăm hỏi, bàn tán của họ không ích lợi gì, nó càng làm Phổ điên đầu hơn.
Từ góc khuất, Phổ nhìn qua cửa kính, phía ngoài hàng rào kẽm gai, ánh sáng từ các cột đèn đổ xuống từng vũng, những con thiêu thân vùng vẫy, vài vọng gác chơ vơ, xa hơn nữa trong đám ruộng im lìm, ánh sáng từ một xóm nhỏ loe lét trong bóng đêm. Tất cả mọi sự đều mù mờ, tất cả đều dây dưa với nhau, tạo thành một khối hỗn tạp. Không có gì rõ ràng, mạch lạc trong bóng tối này cả, không có gì đáng kể, không có gì đáng phải chú ý.
Ánh đèn pha của vọng gác chính đột nhiên sáng quắc, ánh đèn quét loang loáng từ xóm nhỏ, đám ruộng và ngừng lại ở bờ ruộng, Phổ nhìn rõ cái bờ ruộng trơ trẽn với những cụm rạ; Hình như người lính rọi đèn nghi ngờ điều gì, để ánh đèn đứng yên soi thấu từng cụm ra, nhưng Phổ chợt nghĩ “biết đâu người lính lại không mắc tiểu, biết đâu hắn đang mở nút quần đái vọt ra ngoài hàng rào, nên bỏ mặc ngọn đèn bất động”. Phổ mỉm cười đưa thuốc lên hút, nhả khói thành từng vòng lửng lơ trước mặt.
Một đêm trằn trọc với những ý nghĩ xung đột, Phổ cố gắng phân tích , sắp xếp từng câu hỏi, anh chuẩn bị kỹ càng cho buổi sáng trình diện phòng An Ninh.
Sáng sớm thức dậy cùng với mọi người, để ở lại trường đợi giờ lên trình diện. Khoảng thời gian chờ đợi này thật dai dẳng làm Phổ bồn chồn đến khó chịu. Phổ ngồi đợi ở quán Diễm Song, cô gái ngồi két có nụ cười thật tươi, đôi mắt to đen mở lớn, nhưng điều đó vẫn không làm Phổ quên được chiếc quạt cũ kỹ quay lờ đờ từng vòng phát ra tiếng kêu lọc cọc. Trên trần nhà một thạch sùng đang săn đuổi một con ruồi nhỏ. Phổ ngó xuống chiếc đồng hồ tay, cái kim giây mỏng manh quay từng vòng đều đặn, có lúc Phổ tưởng chừng nhìn thấy sự chuyển động của cái kim phút và rồi giờ trình diện cũng lết tới.
Phổ rời quán, tay cầm sẵn lệnh gọi trình diện, lại thẳng phòng An Ninh. Phổ thập thò trước cửa phòng, anh nhìn thấy người Trung sĩ ngồi ở bàn làm việc, Phổ dơ tay chào. Người Trung sĩ ngoắc anh vào. Phổ đưa tấm giấy gọi trình diện cho hắn, người Trung sĩ xem qua tờ giấy rồi ngước mắt nhìn. Phổ thấy khó chịu vì cái nhìn soi mói của hắn. Hắn gật gù cái đầu rồi chỉ cho anh ngồi xuống cái ghế trước mặt.
Phổ vẫn theo dõi người Trung sĩ, anh thấy hắn dở một cuốn sổ ghi vài hàng chữ vào đó rồi đứng dậy đẩy cánh cửa lửng ăn thông với phòng trong, tiếng bản lề cửa khô dầu kêu cót két. Người Trung sĩ lọt vào bên trong và cánh cửa tự động khép lại. Phổ lắng tai nghe rõ tiếng xì xào trong phòng, có giọng nói cứng cỏi nổi lên :
- Gọi nó vào !
Người Trung sĩ thò đầu trên cánh cửa lửng kêu lớn :
- Anh Phổ vào trình diện Thiếu úy.
Phổ lọt vào bên trong và thấy một vị Thiếu úy ngồi sau một cái bàn lớn, trên mặt bàn xếp đầy hồ sơ. Phổ bước tới bàn đứng nghiêm trình diện. Người Thiếu úy lầm lì đưa tay gãi cằm, Y nhìn Phổ lạnh lùng đến độ dửng dưng. Phổ đọc rõ tấm bảng tên để trên bàn “Thiếu úy Đinh-Hữu-Phi”.
Tay phải Phi cầm cây bút vẽ những vòng tròn ngoằn ngoèo trên một sấp giấy. Phi sẵng giọng :
- Anh ngồi xuống đi.
Phổ ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Phi. Phổ nhìn rõ những chiếc kim cúc lẫn lộn với mấy cái bút chì mầu trong hộp đựng bút bằng nhựa đỏ. Phía góc bàn những chồng hồ sơ dầy cộm, bên trên có kẻ chữ “MẬT” thật lớn. Cái không khí nặng nề đó làm Phổ ngột ngạt, vụng về. Phổ có cảm giác Phi đang quan sát mình kỹ lưỡng, tai Phổ nóng lên, những chân tóc ngứa ngáy, hai tay Phổ thừa thãi, anh phải đưa xuống nghịch ngợm một chiếc nút quần. Chiếc ghế của Phi ngồi kêu lên cót két, Phi đưa tay lên lấy một tờ giấy đẩy về phía Phổ :
- Anh lấy bút khai vào đây.
Giọng nói lạnh lùng và khuôn mặt lầm lì của Phi khiến Phổ có cảm giác như hắn đọc thấy tội lỗi của mình. Phổ rút bút cắm cúi khai theo từng câu hỏi trong giấy, Phổ nghe rõ tiếng nắp hộp quẹt Zippo bật ra, Phi châm thuốc hút và Phổ thấy thèm hút thuốc vô kể.
Phổ cố gắng khai hết một loạt các câu hỏi trong tờ thẩm cung rồi trao cho Phi. Phi xem lướt qua lời khai, hắn gật gù lên tiếng :
- Anh cung cấp những tin tức cho tên Huỳnh ?
Phổ choáng váng đáp lại :
- Thưa Thiếu úy, tôi không hề cung cấp tin bao giờ.
- Tên Huỳnh làm gì cho Việt Cộng anh có biết không ?
- Tôi không hiểu anh tôi đã làm gì cho địch cả.
Phi đập bàn thét lớn :
- Anh nói láo, anh muốn qua mặt tôi phải không ? Tôi muốn anh ngay thẳng, anh đừng để tôi nổi nóng, tôi có đủ tài liệu hồ sơ về các hoạt động của anh.
Phổ luống cuống phân trần :
- Thưa Thiếu úy, sự thật tôi không biết anh tôi làm gì trỏng… gia đình tôi sống ở miệt đó từ lâu, đó là vùng xôi đậu, anh tôi đã từng làm trưởng ấp, làm xã trưởng cho Chánh phủ, cũng có lúc Việt Cộng bắt buộc phải làm việc với chúng. Anh tôi ở lại trong vùng đó không ngoài mục đích trông coi ruộng vườn và tùy theo tình hình an ninh mà tránh né, sự thật tôi không hề biết lúc này anh tôi làm gì cho địch nữa ?
Phi gật gù hút thuốc, đổi giọng nhẹ nhàng :
- Thôi được, anh muốn gạt tôi cũng được, ngay như phần khai lý lịch của anh đây cũng có nhiều sự mâu thuẫn lắm rồi. Sự gian lận đó không có ích lợi gì cho anh hết mà nó còn tố cáo tội lỗi của anh nữa !
Phổ lên tiếng :
- Dạ… thưa…
Phi chận lại :
- Tôi không muốn thưa gởi gì hết, tôi muốn anh thành thật trước khi phải áp dụng các biện pháp khác. Những biện pháp đó không có gì tốt đẹp cả.
Phi lấy bút chì đỏ gạch vào phần khai lý lịch của Phổ rồi hỏi:
- Anh sinh tại Biên Hòa. Ba má anh người Nam…
- Dạ… thưa… dạ…
- Anh để tôi nói hết đã, anh gốc người Nam, nhưng tất cả ngôn ngữ, thói quen của anh là dân Bắc Kỳ, anh thấy thế nào ?
- Dạ thưa Thiếu úy, tôi sinh tại Biên Hòa, má tôi người Biên Hòa, nhưng cha tôi là người Bắc vào Nam làm ăn từ lâu, làm cao su từ thời Pháp còn ở đây, hơn nữa, tôi sống với một đám bè bạn đều là người Bắc, tôi không hề nghĩ tới chuyện Nam, Bắc và các ảnh hưởng đó bao giờ.
Phi vội nói :
- Tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện kỳ thị địa phương, tôi nhắc tới điều đó chỉ là để anh khai thật mà thôi… tại sao các chi tiết đó anh không chịu khai vào đây ?
- Dạ… tôi tưởng những điều đó không quan trọng.
Phi gằn giọng :
- Anh khá lắm… những chi tiết đó không quan trọng cũng như chuyện anh cung cấp tin tức về quân trường này cho cái cô Cúc nào đó cũng không quan trọng…?
Phổ vừa quẹt mồ hôi vã ra trên trán :
- Dạ… Dạ.
Phi cản lại và tiếp :
- Không có gì quan trọng hết, kể chuyện một ngày đẹp trời nào đó, tên Huỳnh sai đàn em pháo kích vào đây…
Phổ cuống cuồng đáp lại :
- Dạ… chuyện đó hoàn toàn sai hết, tôi chỉ gặp Cúc một lần, nó là con nuôi anh Huỳnh thiệt, nhưng nó ở với má tôi, nó lên đây chỉ để trao tiền của má tôi cho tôi thôi.
Phi gật gù hỏi lại :
- Anh nói tụi tôi sai lầm, anh nói không hề biết rõ về anh, về các liên lạc với tên Xã ủy Võ Văn Huỳnh ở Phú Hội, vậy có bao giờ con Cúc nó khuyên anh đào ngũ không ?
Phổ càng lúng túng, hai tay anh bấu chặt lấy mép bàn :
- Dạ không… có lần Cúc nói anh Huỳnh nhắn tôi nếu ở ngoài này cực quá thì trốn vô trỏng, nhưng tôi không chịu, tôi không bao giờ có ý nghĩ đào ngũ cả.
Phi nhếch mép cười :
- Hồi nãy anh nói anh không hề liên lạc gì với tên Huỳnh, vậy bây giờ tại sao anh lại tự thú nhận đã từ chối sự khuyên nhủ của y ?
Phổ líu lưỡi phân trần :
- Dạ chuyện đó chỉ là chuyện gia đình, tôi thề không bao giờ tham dự, hay biết gì về công chuyện của anh tôi cả.
- Anh nên tiếp tục kể chuyện gia đình anh đi… anh đừng thề thốt vô ích… tên Huỳnh, anh ruột của anh có vì gia đình nhờ anh điều nghiẹn vị trí , các sở của quân trường không ?
- Dạ không hề, không bao giờ có chuyện đó cả.
Mồ hôi đổ xuống mắt cay sè, Phổ lấy tay vuốt mặt, Phi quắc mắt ngó Phổ :
- Tôi nói đàng hoàng, anh không chịu phải không ?
Phi đổi giọng cứng cỏi :
- Tôi báo cho anh biết, tôi kiên nhẫn và mất quá nhiều thì giờ với anh rồi đó, bây giờ anh có chịu nói thật ?
Không đợi Phổ trả lời, Phi đập bàn thét lớn :
- Anh hoạt động cho Việt Cộng từ bao giờ ?
Phổ run rẩy :
- Dạ… không… dạ không…
Phi tiếp tục tấn công :
- Anh đã cung cấp những tin tức gì cho tên Huỳnh ?
- Dạ, tôi không làm gì hết, tôi không biết gì hết !
Giọng Phổ như sắp khóc; Phi đổi giọng lạnh lùng :
- Thôi được, tôi chịu thua anh.
Phi quay ra gọi lớn :
- Nhơn… Nhơn à.
Người Trung sĩ đẩy cửa bước vào. Phi ra lệnh :
- Trung sĩ trả anh này về Đại đội, khi cần tôi sẽ kêu lên.
Phổ đuợc trả về Đại đội, tâm trí anh đã trải qua những ngày khủng hoảng nhất, vài ngày lại bị kêu lên thẩm vấn một lần. Bè bạn bàn tán, chỉ có hai cách, một là bị trả về đơn vị gốc, hai là ra Trung sĩ. Phổ mong muốn chuyện của mình mau được giải quyết, như vậy đỡ mệt óc hơn. Những rắc rối này làm Phổ chán nản cùng cực… thêm vào đó, các lo lắng về gia đình, về Thúy An càng làm Phổ bối rối hơn. Cuối cùng Phổ đâm ra ù lì, anh nghĩ chỉ còn cách đó là đàn áp được các sợ hãi, các lo lắng. Tuần lễ thứ bảy qua đi, trình trạng bất an vẫn diễn ra đều đặn với Phổ, tuy nhiên, Phổ vẫn được về phép hằng tuần, những giờ phép qúi giá Phổ dồn cả vào các cuộc ăn chơi với bè bạn như vớt vát một chút tự do.
Phổ ngần ngại gặp Thúy An, sau hai lần An xuống Thủ Đức thăm Phổ, gặp nhau trong khu tiếp tân, Phổ vẫn thấy có một cái gì gắng gượng ở An, ở chính mình. An còn nhiều nghi kỵ, Phổ càng biện bạch thì càng gây thêm ngộ nhận, xa cách. Phổ linh cảm mỗi lúc đời sống một tách rời An và mình, đến độ anh khó lòng cưỡng nổi. Ý nghĩ mất mát làm Phổ đau đớn đến tê dại, anh tự an ủi tình ái vốn bão bùng, cho dù cố tin rằng những bất trắc sẽ qua, miễn là mình phải kiên nhẫn chịu đựng. Phổ hoang mang với ý nghĩ người ta có thể mất nhau hay kết hợp vì những duyên cớ rất nhỏ bé trong đời sống và thấy buồn bã đến lặng nguời.
Từ thâm tâm, Phổ thấy rõ mình yêu An tha thiết, nhưng tình yêu đó thật cao vời, thật mỏng manh, như mây. Phổ đã thầm thì với chính lòng mình “An ơi, làm sao anh có thể vươn lên thật cao để giữ lấy em, làm sao anh có thể thoát mọi trói buộc để cùng em bay nhảy, làm sao em có thể biết được nỗi khổ tâm đến mê sảng này”.
Để xoa dịu các khoắc khoải, nghững dầy vò thường trực, Phổ chỉ còn cách lết theo đám bè bạn còn ở ngoài dân sự hốt tiền như rác đổ vào các thú vui vung vít. Bất ngờ Phổ quen Luyến ở Paramount. Một vòng tay, một bước chân rất hững hờ, rất vô tình cuốn Phổ vào nỗi mê đắm bất chợt. Thấy Phổ kết Luyến, Quang đã cảnh cáo “Đ.M, coi chừng ngỗng non, làm sao ẵm nó qua mặt mụ Tơ thì mới khá được”. Phổ chép miệng buồn bả “trên răng dưới dế sợ đéo gì”. Đằng nói huỵch toẹt “em cũng đếch sáng giá gì, nhiều mặc cảm nữa, cặp với thằng Phổ cũng vừa, lướt thướt đi mày”. Phổ cũng phải thú nhận rằng Luyến có nhiều điểm quyến rũ, Luyến gần gũi với tầm tay của anh hơn.
Từ đó Phổ chỉ còn một nguồn vui duy nhất là được phép cuối tuần gặp Luyến. Một buổi sáng Phổ lên trình diện phòng An Ninh, công việc khai báo lằng nhằng đã trở thành một thói quen của Phổ. Anh bước đến ghế vừa xin giấy thẩm cung thì bị người Trung sĩ chặn lại :
- Hôm nay khỏi khai… Chờ đó, tôi dẫn qua trình diện Trung úy Hùng…
Phổ bối rói :
- Có gì lạ…
Nhơn chận ngang :
- Coi chừng, lần này anh kẹt đó, ông Hùng khó lắm !
Phổ chờ một lúc thì Nhơn dẫn Phổ qua phòng Hùng. Nhơn nói Phổ đợi ngoài và sau đó Phổ được gọi vào trình diện. Bước vào trong phòng, Phổ đứng khựng lại, anh tưởng chừng lóa mắt, đúng Hùng bạn cũ, Phổ muốn reo lên trong lòng. Nhưng nhớ được ngay thân phận mình, nhớ được cái tư thế của Hùng ở nơi này khác hẳn tình bằng hữu ngoài đời sống. Phổ ngập ngừng không dám lên tiếng. Hùng ngồi ở bàn đang hí hoáy ghi chép với cuốn sổ. Một lúc Hùng ngẩng mặt lên nhìn chằm chặp vào Phổ rồi la lớn ;
- Ơ Phổ, Đ.M, mày đó hả, tao tưởng Phổ nào, mày mà Việt Cộng cái đéo gì, sắp lấy Thúy An chưa mày ?
Phổ lúng túng, bàng hoàng trước các thay đổi bất ngờ của hoàn cảnh, Hùng xô ghế đứng dậy vỗ vai Phổ kéo đến gần bàn :
- Đ.M, ngồi chơi mày, chuyện vặt đó để tao lo cho, thế nào, tao nghe nói mày bị vồ lên Phước Long cơ mà ?
Phổ ngập ngừng ngồi xuống ghế :
- Vụ của tao có kẹt gì cho mày không ? Từ hôm trước đến giờ tao vàng người… Mệt quá…!
Hùng nhìn Phổ thương hại :
Đ.M, phiền đéo gì, mày không dám tin cả tao nữa sao ? Tao biết rõ hoàn cảnh của mày từ vài năm nay, biết rõ các liên hệ gia đình mày, nỗi khổ tâm của cả nhà mày nữa…
Hùng sẵng giọng :
- Mày nên nhớ rằng, ở đây tao có thể hãnh diện với việc làm, tao đâu có muốn làm ở cái phòng phải gió này, ngưòi ta ưng và muốn tao làm việc ở đây, khi nhận làm thì phải làm tới, làm đúng và thẳng thắn. Tao chưa hề xin xỏ hay tha thứ cho một đứa nào, kể cả bằng hữu nếu chúng có tội, nhưng ngược lại tao có trách nhiệm và bổn phận giải tỏa các oan ức của bất cứ ai. Trong công việc tao không là bạn mày, nhưng tao biết rõ hoàn cảnh của mày, tao có bổn phận làm sáng tỏ điều đó. Tao chưa làm điều gì ám muội ở đây cả và tao hãnh diện với mọi người, tao có quyền hãnh diện về sự thẳng thắn đó.
Nghe Hùng ngang nghiên ăn nói, Phổ thấy vững bụng :
- Không hiểu sao hồi này tao bị tai họa đều đều.
Hùng cười hô hố :
- Được tình, đen vận là thế đó em !
Phổ vẫn băn khoăn :
- Vụ này không gặp được mày chắc tao rách quá ?
- Thôi dẹp cha chuyện đó đi, tao về đây chừng nửa năm và tin rằng chưa lầm lẫn một vụ nào, các xếp cũng biết rõ điều đó, lẽ ra tao được về Tổng Tham Mưu rồi nhưng các xếp ưu ái giữ lại… Đ.M, ưu ái nhiều khi cũng kẹt… Này, chuyện Thúy An đến đâu rồi ?
Phổ mỉm cười :
- Bình thường.
- Bình thường là đéo gì, thôi lấy đại nó đi, lính tráng khổ thấy mẹ, không có vợ thì thật là buồn, đã là lính thì phải làm nhanh, làm mạnh mới khá được.
Phổ tâm sự với Hùng cho tới trưa, tất cả các khổ tâm được bày tỏ. Lúc Phổ về Hùng vỗ vai nói :
- Yên trí về đi… Tao có thể lợi dụng cơ hội này cho mày lè phè vài bữa, nhưng tao không thích làm thế, về phòng đi tập lại đàng hoàng, ráng ra Chuẩn úy nghe em !
Từ phòng An Ninh bước ra, Phổ thấy như trút hết mọi gánh nặng, những trói buộc càng lúc càng xiết chặt bất ngờ được cắt đứt làm Phổ bàng hoàng. Anh thầm thì trong miệng “Tất cả mọi sự đều tùy ở hên xui. Người ta có số cả… Một kinh nghiệm quý giá là nên bình tĩnh, chuyện gì mà chẳng qua đi…”.
Sunday, October 25, 2009
Chương 5 / Chiến Trường Tồi Tệ - Ngô Đình Vận
5
B ốn tiếng nổ chát chúa, từng loạt súng nổ dòn xé không
gian. Đất cát bốc lên mịt mù. Phổ hoảng hốt nhào ngưòi vào bụi rậm, anh thấy thấp thoáng vài đồng đội trong đám cây quanh đó. Tám nép người vào một gốc cây lớn, nó nâng khẩu trung liên lên và quạt xối xả về phía trước. Đất, cát, cành cây bốc lên hồi nãy bây giờ rớt xuống ào ào, tiếng đạn nổ gắt tứ phía. Phổ gắng gượng kéo thùng đạn trung liên lại phía Tám. Tám vừa thấy Phổ vội quát :
- Đ.M, nằm xuống… chết mẹ bây giờ !
Phổ líu ríu bò tới sát gốc cây. Giọng Tám hồng hộc :
- Đ.M, mày bắn phía trái cho tao…
Phổ vụng về nâng khẩu súng trường, kê lên một rễ cây và bóp cò, súng nổ mạnh, người Phổ dội lại. tám lắp xong băng đạn, quay mũi súng nhắm một bụi rậm bắn cả loạt đạn.
Tiếng hò hét vang lên cùng khắp, Phổ bắn hết kẹp đạn anh chùn người xuống thấp, dùng cả sức nặng của thân thể ấn một gắp đạn vào ổ súng. Tiếng loạt soạt trên đầu, những loạt đạn của địch bắn trả lại, một viên đạn trúng vào thân cây trên đầu Phổ, thân cây tướp ra, những miếng vỏ cây bắn vung vãi.
Tám ôm khẩu trung liên vừa bắn vừa chạy tạt sang một ụ đất bên cạnh, miệng thép lớn :
- Đ.M, chạy sang đây… chết mẹ bây giờ !
Phổ luống cuống quơ lấy thùng đạn nhoài người theo Tám. Tám chiếm được ụ đất, nó đặt cây trung liên xuống và bắn tưới vào phía trước. Tám hối :
- Bắn đi…
Phổ chồi người lên, hướng mũi súng về phía trước bóp cò. Phổ vẫn nghe tiếng xung phong, tiếng súng nổ ầm ầm và súng nhỏ sôi sục. Lúc này, Phổ đã bớt hốt hoảng, anh nhìn rõ phía trước, nơi bụi cây rậm, những tia lửa lóe lên giữa đám lá . Tám quay mũi trung liên về phía đó bắn xối xả, Phổ thấy những tia lửa trong bụi cây tắt ngấm.
Tám quay qua phía trái la lớn :
- Tụi bay bắn tưới cho tao lên.
Phổ quay qua thấy Huân đang tỳ súng vào thân cây nhả đạn, Phổ kẹp chặt khẩu súng bắn tưới về phía trước. Tám lắp xong băng đạn mới, nó nhổm người khỏi ụ đất vừa bắn vừa lao ngưòi hướng tới một gốc cây lớn. Phổ thấy Tám lướt tới vài bước, nó loạng choạng ngã xuống. Phổ cuống cuồng, phát giác ở một bụi cây phía trước thấp thoáng bóng người, anh lúng túng quơ tay lên và đụng nhằm trái lựu đạn dắt trên dây ba lô nơi ngực. Phổ giựt mạnh trái lựu đạn, ghé răng cắn chốt an toàn và tung đại về phía lùm cây. Tiếng nổ dữ dội, cành cây tung lên. Có tiếng la lớn :
- Đ.M, thằng Tám bị rồi.
Phổ thấy Huân nhào lên, kéo Tám lại ụ đất, mặt Tám nhăn nhó, hàm răng cắn chặt lấy môi dưới, khiến Phổ quay mặt đi , Huân cởi áo Tám, bả vai trật ra vết đạn bứt hẳn một miếng thịt. Phổ nhìn rõ vết thương đỏ tươi, những sợi gân trắng và máu rỉ ra chung quanh. Phổ chợp rùng mình . Huân lấy cuộn băng cá nhân dắt trên nón sắt, băng vết thương cho Tám. Người Tám run lên lật bật như bị phỏng, Huân hỏi Tám vài câu nhưng nó chỉ lắc đầu.
Băng cho Tám xong, Huân nhỏm dậy, nhào người ra vồ lấy cây trung liên, kéo về ụ đất tiếp tục nhả đạn.
Một lát sau, tiếng súng đã ngớt, Phổ thấy đồng đội từ các bụi cây quanh đó chạy ào lên. Tiếng đạn đại bác rít ngang đầu xà nổ mạnh phía trước. Trái đạn nổ, như hất Phổ tung lên và anh thấy tức nơi ngực.
Người y tá của trung đội đã bò tới săn sóc Tám. Tiếng đạn đại bác nổ thật gần rồi dãn ra xa, tiếng súng nhỏ cũng thưa dần. Trận chiến xảy ra khoảng hai chục phút thì cánh rừng im tiếng súng, trên tròi đã có những chiếc trực thăng bay tới yểm trợ.
Phổ rời ụ đất bước lại phía lùm cây, anh đã tung trái lựu đạn. Tới lùm cây tơi tả, Phổ đứng khựng hẳn lại, anh nhìn thấy một thây người nát bấy, xác chết bật ngửa, ruột, gan bay mất chỉ còn lại đống thịt xám ngoét bầy nhầy, Phổ lợm giọng muốn ói mửa, anh vội quay mặt đi. Nỗi khiếp đảm và đau đớn cuồn cuộn dâng lên làm Phổ bối rối, anh đứng lặng người. Một lát sau Phổ lấy hai tay bịt chặt lấy đầu. Các cố gắng đó không thể ngăn được những ý nghĩ ghê tởm đổ tới, Phổ cảm thấy bàng hoàng, anh có cảm giác như mình không đứng ở nơi này, anh không tin rằng những sự việc đó đã xảy ra, đã hành động và kết quả khiếp đảm đến thế.
Phổ thất thểu bước trên mặt đất, anh tiến tới lùm cây, cúi xuống đưa bàn tay lật mặt tử thi: Đó là một người lạ, y còn trẻ lắm, đôi mắt trợn ngược trắng dã, Phổ nghe rõ trong đầu “ta có thù oán ngươi không, sao ngươi giết ta?”. Phổ lẩm bẩm một mình : “mày là quân thù… tao giết tất cả quân thù”.
Phổ buông mạnh cánh tay và chiếc đầu tử thi ngúng nguẩy rớt xuống bụi cỏ gai có những bông hoa mầu tím.
Phổ thở hổn hển, anh thấy miệng lưỡi đắng chát, cổ khô hẳn và anh cúi xuống lấy bàn tay vuốt lên đôi mắt xác chết “ngươi hãy nhắm mắt lại, tôi không thể làm gì khác được cho anh, tôi thương anh hơn cả gia đình anh, có ai thân thuộc anh ở đây, chỉ có tôi thôi… rồi kiến lửa sẽ đục khoét đôi mắt này, nước mưa sẽ ngấm vào thân thể, sình thối như chuột chết…”. Phổ đứng dậy đấm mạnh vào đầu, anh nói lớn “không, không nghĩ gì nữa hết !”. Anh rảo bước và loạng choạng đi xuống dưới lộ.
Con đường đất đỏ ngoằn ngoèo chạy giữa rừng cây, mặt đường lầy nhầy, nước mưa đọng từng vũng. Bây giờ nắng đã lên cao, những hàng cây in bóng mát xuống mặt lộ. Toán lính tụ tập ồn ào dưới một gốc cây lớn, họ săn sóc cho những người bị thương. Phổ bước lại, anh thấy Tám ngồi dựa vào gốc cây, hai chân nó duỗi dài trên mặt cỏ bê bết bùn đất. Phổ nhìn kỹ, anh thấy Trung úy Kính trong đám.
Ông ta nằm gối đầu trên một cái sắc, ống quần bên phải bị xé toạc hẳn ra để lộ đùi quấn băng trắng toát. Người y tá ngồi xổm bên cạnh, anh ta đốt điếu thuốc gắn vào môi trung úy Kính, ông ra dấu cám ơn. Phổ bước tới gốc cây ngồi cạnh Tám, anh ghé vào Tám thì thầm :
- Bớt đau chưa mày ?
Tám khẽ gật đầu. Phổ nhìn qua bên kia đường, anh thấy mấy người lính đang khiêng xác đồng đội từ cánh rừng ra đặt xuống ven lộ; Có ba xác chết tất cả. Phổ hoảng hốt hỏi bâng quơ :
- Có người chết sao ?
Người y tá nhanh miệng đáp :
- Ba ngưòi ở Trung đội một.
Phổ thở dài, anh nhìn rõ các tử thi lấm láp bùn đất, các ý nghĩ lao đến làm Phổ chới với, anh cố gắng xua đuổi ý tưởng “nếu ta là Trời Phật, ta sẽ làm cho mọi người sướng hơn nhiều” Phổ không thể hiểu nổi ý nghĩ kỳ lạ này tại sao lại chạy qua khối óc nhức mỏi của Phổ. Trung úy Kính quay đầu lại, Phổ vội hỏi :
- Trung úy bị nhẹ chứ ?
Giọng Kính uể oải nhả theo khói thuốc :
- Một viên vào đùi… Sơ sơ nhưng không đi nổi. Đ.M, không có thằng Bòn nhẩy lên cứu thì đi đứt vì một loạt đạn tiểu liên của tụi nó rồi…
Kính hít một hơi thuốc rồi tiếp :
- Không biết thằng Bòn còn giận tao về vụ hôm trước không, nổi nóng bậy đập nó hơi nặng !
Phổ đáp gọn :
- Ăn nhằm gì Trung úy ơi, thằng Bòn nó ưa nóng hoảng vậy thôi, nó giận ai lâu được !
Người y tá góp chuyện :
- Trời đất, Trung úy mới về chưa biết đó, nhiều khi ở hậu cứ tụi nó gây nhau, nhưng ra trận là dẹp hết.
Phổ nhìn ra đường, anh thấy mấy người lính cắm cúi, sắp xếp ba xác đồng đội. Cử động của họ thật bình tĩnh đến độ lạnh lùng làm Phổ nôn nao. phổ yên lặng ngồi ngó ánh nắng, mặt trời lên cao, những bóng mát thu gọn lại quanh gốc cây. Phổ nhìn thấy Thiếu úy Hoàn, Đại đội phó lăng xăng dưới lộ, ông ta đang ra lệnh cho trung đội chỉ huy dọn dẹp bãi đáp cho trực thăng tới tải thương. Phổ chợt thấy đau xót ở khuỷu tay, anh nhìn xuống và thấy một vết sước thật dài, vết sước trầy da lấm tấm những đóm máu đỏ, những giọt nước vàng bầy nhầy. Phổ thầm nhủ “rồi máu cũng khô đi, chỉ vài ngày vết thương sẽ lành lại”.
Trận địa được thu dọn xong vào lúc xế trưa, trực thăng đáp xuống tải thương, đại đội được lệnh di chuyển về căn cứ.
Từ sáng sớm Phổ chỉ uống một ly cà phê cho tới lúc về trại, Phổ thấy nôn nao nhưng không muốn ăn. Toàn thân bải hoải, rời rã. Phổ nằm nghỉ trong hầm một lúc rồi kéo Huân xuống quán.
Hai người ngồi vào bàn gọi hủ tiếu. Một lát, Chanh bưng hai tô hủ tiếu đặt trên bàn. Phổ nhìn vào tô hủ tiếu bốc khói và thấy ngại ngùng. Huân cầm đũa ăn ngấu nghiến, hình như nó đói lắm, vừa nhai Huân vừa giục Phổ :
- Ăn đi mày… bộ đau hả ?
Phổ đáp gọn :
- Không.
Phổ cầm lấy đũa uể oải vớt từng sợi bánh, miệng lưỡi anh lạt nhạt, cổ họng như thắt lại, Phổ phải cố gắng nuốt từng miếng một. Huân nhìn Phổ ăn lắc đầu :
- Ăn uống gì khều khều vậy ?
Phổ quơ đũa gắp một viên thịt đưa lên miệng, viên thịt lẫn xương và răng Phổ chợt ghê buốt, đúng là nhai nhằm chiếc răng đã cắn chốt lựu đạn rồi, Phổ nghĩ thế. Anh nhìn xuống tô hủ tiếu hết muốn ăn nữa, tô hủ tiếu với những miếng thịt bầy nhầy. Hình ảnh tử thi chết nát bấy vì lựu đạn tràn ngập trong đầu. Phổ muốn ói mửa, anh quơ tay lấy ly cà phê đá uống vội. Từ bàn kế bên mấy người lính của trung đội Một vừa ăn uống vừa kể lại trận đánh. Toán Xích hầu của Trung đội Một vừa tới khúc quẹo của con lộ, họ tình nghi có địch nên đã dừng lại. Khi đó một trái mìn đặt bên lề đường phát nổ, hai người lính ngã xuống và trận đánh khởi đầu. Địch từ các cao điểm hai bên lề đường bắn xuống xối xả. Cả Đại đội tạt ngang vào khu rừng bắn lại. Trung úy Kính từ phía dưới xông lên điều động Trung đội Một và ông đã lãnh một viên đạn vào đùi. Một người vừa gặm cái đùi gà vừa nói :
- Đ.M, tụi nó để lại hai xác, một cái nát bấy vì lựu đạn.
Phổ nhăn mặt, anh cố gắng xua đuổi cái hình ảnh ghê tởm ùa đến. Giọng nói ồn ào tiếp tục :
- Đại úy Tiểu đoàn trưởng nghe báo cáo la dữ, nhưng sau khi biết Trung úy bị thương ổng nín luôn.
Một giọng khác góp chuyện :
- Như thế mình chết ba, bị thương hai, kể như thua tụi nó.
- Đ.M, bị chết ít thế là phước rồi, phục kích mà !
- Chỉ tội mấy thằng chết.
- Hình như vợ thằng Đực mới sanh gì đó ?
- Quê nó ở đâu mày ?
- Dưới Búng… nghe tin này bà Xã nó dám xỉu lắm.
- Đ.M. Chết chóc là chuyện thường, tao thấy nhiều con mẹ chưa lãnh tiền tử đã có chồng khác rồi.
Phổ đưa mắt nhìn ra ngoài, anh thấy chị vợ lính đang làm cá, tay chị cầm con dao lớn chặt xuống, con cá nằm chình ình trên mặt thớt. lưỡi dao phản chiếu ánh nắng lấp lóe làm Phổ nheo mắt, anh ta vội quay đi.
Phổ chỉ chịu đựng sự mệt mỏi cho đến chiều tối, anh lên cơn sốt phải nằm luôn tại hầm. Bệnh sốt rét nín nhịn từ lâu được dịp hành hạ Phổ. Huân phải dùng hai cái chăn dạ đắp cho Phổ, nhưng vẫn thấy Phổ rên hừ hừ, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập, Huân lấy luôn chiếc poncho đắp lại cho Phổ. Chiếc poncho bí hơi chỉ làm cho Phổ khó chịu hơn, sự đắp điếm bên ngoài không thể làm dịu được cơn sốt rét. Cái rét lạnh buốt ở trong máu, trong xương, tủy toát ra. Mặc dù trước đó, Phổ đã được Huân tống cho hai viên chloroquine, nhưng cơn sốt vẫn không thuyên giảm.
Phổ cắn chặt hai hàm răng lại, để ngăn hơi thở, nhưng dù Phổ nín chịu cách mấy , co quắp chân tay đến thế nào thì hơi thở cũng phát ra hừ hừ. Phổ tự nghĩ đã làm phiền Huân quá nhiều, hình như tấm sạp gỗ cũng run lên theo cơn sốt, Phổ càng ái ngại khi thấy Huân lục đục suốt đêm chăm sóc cho mình.
Gần sáng Phổ mệt đến thiếp đi, Huân vội kêu bè bạn phụ với nó đưa Phổ qua bệnh xá. Khi bè bạn đem Phổ ra sân, Phổ chợt tỉnh. Anh thấy láng máng trong ý nghĩ đuối ngã một khung trời nhạt nhòa, vài vì sao lẻ loi, băng giá.
Nằm bệnh xá Tiểu đoàn qua đêm , sáng hôm sau Phổ được đưa đi bệnh xá Trung đoàn tại Phước Long. Bệnh tình Phổ thuyên giảm, nhưng người Y tá trưởng nói rằng bệnh sốt rét phải chữa lâu mới dứt nọc. Những ngày nằm bệnh xá thật buồn, Phổ chỉ mong sớm được trở về đơn vị gặp bè bạn. Phổ nằm ba ngày thì được Huân lên thăm, Phổ vui mừng nhận được hai lá thư một của Cúc, một của Thúy An, Phổ vội xé ngay bức thư của Cúc để biết được tin nhà. Cúc gửi thư tay từ Phước Thiền lên và vì thế Cúc viết rõ tình cảnh của gia đình, từ việc Huỳnh bị Mặt Trận nghi kỵ, ép buộc phải đưa mẹ vào Hang Nai sống với vợ và các con anh.
Nhắc tới việc khuyên Phổ trốn về, Cúc viết rõ Huỳnh đã trả lời thẳng với mấy người cán bộ là anh không thể bắt buộc Phổ được vì từ lâu Huỳnh đã đoạn tuyệt với Phổ. Cúc cũng cho Phổ hay rằng nếu Phổ trốn về chưa chắc đã giúp gì cho Huỳnh mà còn nguy hiểm vì không thể nào tránh thoát phải nhận súng chiến đấu cho Mặt Trận. Càng đọc, Phổ càng phân vân lo lắng cho gia đình hơn. Cúc dặn Phổ giữ liên lạc thường xuyên bằng thư về địa chỉ của bà Hải ngoài Phước Thiền, Cúc có thể lén lút ra ngoài đó được. Các khó khăn của gia đình càng lúc càng lớn hơn, Phổ tưởng như hoàn cảnh của mình bị xiết lại giống cái nút của sợi dây treo võng cột bên giường. Phổ thấy khó có thể làm được gì, để tháo gỡ trói buộc cho gia đình, chỗ chính bản thân anh, Phổ trấn an khi nghĩ đôi lúc cứ ì ra, cũng là một cách giải quyết và biết đâu các khó khăn không qua khỏi.
Khi đọc thư Thúy An Phổ thấy dễ chịu hơn, những dòng chữ tràn đầy tự tin, tràn đầy hy vọng. An cũng tỏ ra thông cảm với sự vội vàng di chuyển của đời sống nhà binh, những trách móc nhẹ nhàng của An, khiến Phổ hiểu rằng An vẫn còn nhõng nhẽo như ngày nào mới gặp. Một điều làm Phổ suy nghĩ nhiều nhất là An cho biết có hy vọng đi du học ở Hoa Kỳ. Những sung sướng vui tươi của An đôi khi làm Phổ lo lắng, bởi vì chỉ có Phổ hiểu rõ gia đình An, trong khi An rất mù mờ về hoàn cảnh Phổ. Càng yêu An, Phổ càng lúng túng không biết có nên nói rõ cho An biết về các khó khăn của mình không, điều đó có ích lợi gì. Cái kinh nghiệm vốn có của Phổ trong vụ trục trặc với Hằng, mất Hằng đã được bè bạn kết luận là bởi Phổ quá thành thực, quá vội vàng trong sự chia sẻ những rắc rối riêng tư của mình. Khi yêu An, Phổ đâm ra nhát sợ đủ chuyện, những rụt rè, phân vân càng để lâu, càng cao đầy khiến Phổ không còn muốn nhắc nhở tới nữa. Phổ linh cảm thấy giữa Phổ và An còn muôn vàn ngăn cách muốn san phẳng các dị biệt này cũng phải mất một thời gian lâu dài và phải vô cùng kiên nhẫn.
Ở bệnh xá được hơn một tuần lễ thì Phổ được xuất viện trở về đơn vị. Ngày về căn cứ, Phổ vừa xuống khỏi chiếc GMC thì Thượng sĩ Ngữ đã chạy lại đứng nghiêm chào Phổ :
- Chào Chuẩn úy.
Phổ lính quýnh không hiểu ông Ngữ chơi trò gì lạ vậy, anh nói :
- Thôi tía, phá con hoài.
Thượng sĩ Ngữ niềm nở vỗ vai Phổ :
- Tôi báo tin mừng cho… anh được gọi đi học Thủ Đức…
- Thiệt không Thượng sĩ ?
- Ai đùa làm gì, có điều ra trường đừng quay lại phạt trả thù tụi này thì tội lắm…
Phổ reo vui :
- Thôi mà tía…
Cái tin được điều chỉnh trình trạng đi học Thủ Đức sau gần một năm mắc kẹt làm Phổ sung sướng, nhưng sau đó Phổ lại buồn buồn, anh thầm nhủ “thoát khỏi cảnh này đi học dù sao cũng đỡ khổ hơn”, nhưng một cái gì đó trắc ẩn trong lòng, Phổ thấy mất mát đủ thứ nào bè bạn, những thói quen hằng ngày, từ căn hầm vững chắc, tường cây ghép vỏ sù sì chặn ngang lớp đất dày, anh tin rằng nằm trong địch có pháo kích cũng chẳng ăn thua gì, nào cái lỗ châu mai Phổ đã từng đứng mỗi chiều ngắm cánh rừng cao su xanh ngợp bên ngoài, khoảng trống ở quán Hạ sĩ Bé, có thể ngồi đó vừa uống cà phê vừa nhìn con nít chạy nhảy trên các bờ công sự mỗi buổi chiều. Ý nghĩ phải rời bỏ các thói quen, các vặt vãnh ấy làm Phổ chợt xót xa, lạc lõng.
Lo xong thủ tục, Phổ về Sàigòn chờ trình diện nhập học. Sống với Đằng ở Bàn Cờ, sinh hoạt của đám bè bạn cũ làm đảo lộn hết nếp sống lính tráng của Phổ. Anh lao vào cái sinh hoạt xô bồ, ồn ào của bè bạn và thấy được tự do hơn bao giờ.
Những sôi nổi tràn đầy sức sống bề mặt qua đi, anh vẫn thấy một ám ảnh nào đó vây phủ mọi người, Phổ ít thắc mắc về đời sống riêng của mỗi người, nhưng đôi lần Phổ không khỏi bực mình khi thấy những hành động diễu cợt quá trớn của bằng hữu. Phổ chợt thấy mình lạc lõng trong những cuộc chung vui, anh băn khoăn không biết mình già đi hay đời sống quân ngũ đã biến anh có thói quen chấp nhận một vài trật tự nào đó. Các diễu cợt của bằng hữu trưóc đời sống, nhiều khi đùa cợt vô tình đã gây ra kết quả tàn bạo. Quang đã vô tình khởi xướng một cuộc bãi khóa chỉ vì đang lúc hứng nghe một cô gái thách đố và kết quả nhiều bạn bè bị bắt, bị đánh đập, nhiều người khác bị khổ.
Phổ tâm sự với Đằng về những băn khoăn đó. Đằng nói thẳng thừng “việc đếch gì thắc mắc, sống được là sống, thằng đi lính như mày thì còn chó gì mà giữ gìn, đứa trốn lính thì có mặc cảm mất tự do, thằng đi học thì đéo thấy tương lai, học giỏi, học dở cũng vào lính, sống trên những bấp bênh, những bất an, tội chó gì không xả láng để gỡ gạc, hơn nữa, mình cũng là trò đùa của nhiều thằng rồi thì tại sao vồ được cơ hội không vui vẻ đáp lễ lại, đó cũng là một trò đùa nghiêm chỉnh”. Câu nói của Đằng ít nhiều làm Phổ nghĩ ngợi. Từ trước, Phổ nghĩ chỉ những đứa kẹt lính mới không thể tính chuyện lâu dài được, Phổ không ngờ những đứa còn là dân sự cũng mắc cạn hết.
Hình như niềm tin của tất cả bằng hữu đã cháy vèo tàn lụi. Mọi người đổ dồn các ẩn ức, các thua thiệt, bất mãn vào sự phá phách. Có lần Quang nói đùa “phá phách cũng là một lối thoát đầy hấp dẫn, đầy cảm giác chứ bạn ?”.
Thảm kịch chung cho tất cả và mọi người đều đáng tội nghiệp, không ai cứu thoát được ai, sự trông cậy ở Đức Chúa Trời, Đức Phật thì quá mòn mỏi. Từng người tìm kiếm cho mình những cảm giác riêng lẻ, cảm giác ấy thế nào tùy thích, nhưng sống là cảm giác; Mỗi lần hoang mang như thế Phổ lại thấy hình ảnh của mẹ thật an ủi. Hình ảnh của Thúy An thật dịu dàng. Đó là bóng mát cuối cùng mà Phổ có thể tìm được để ngơi nghỉ. Phổ thầm nghĩ “ít ra mình vẫn còn những nơi đó để bám vào mà sống”.
Nghĩ tới An, đột nhiên Phổ rời khỏi giường, anh tự hỏi “sao không tới gặp An bây giờ ?”. Đẩy cửa bước ra ban công, buổi sáng trời thật đẹp, mặt trời ngủ vùi trong sương mù, thốt nhiên Phổ thấy xao xuyến lạ thường. Thời tiết như những ngày đầu thu trên Đà lạt.
Phổ quay vào nhà thay quần áo rồi mới đi gặp An. Suốt đoạn đường, Phổ cố gắng phân tích chính mình để tìm thấy lý do tại sao về Saigon không gặp An ngay, một phần có thể vì các thú vui của bè bạn lôi đi, một phần tại mình đầy rẫy những mặc cảm, những thua thiệt nên ngại gặp An, còn lại đủ thứ lặt vặt khác.
Phổ đã chẳng hề tìm được lý do chính nào, nhưng ngôi nhà yêu mến đã hiện ra trước mặt. Phổ đưa tay nhấn đại chuông điện để lẩn tránh những băn khoăn tung rối của mình. Cửa phòng khách bật mở, Phổ nhìn thấy Thúy Nhi chạy ra, Nhi hớn hở đến nũng nịu :
- Anh… Anh…
Cô bé đưa tay kéo chốt cửa, Phổ bước vào vuốt má Nhi :
- Nhi lớn quá, trông lạ ra…
Nhi tựa vào cánh cửa bĩu môi, nó dọa :
- Chị An đang sùng đó !
Phổ kéo tay cô bé :
- Ba , má có nhà không em ?
Nhi đưa ngón tay lên miệng nheo mắt :
- Đi vắng hết, có mình em à.
Phổ béo mũi cô bé, nhíu mày :
- Cả chị An nữa ?
Nhi mím môi gật đầu rồi vùng thoát khỏi tay Phổ chạy vào nhà. Phổ nhìn theo cô bé và biết chắc rằng bị Nhi gạt, anh thầm nghĩ “mới mười một tuổi mà đã ranh thế, con nít lúc này khá thật”. Phổ bước lên thềm, Nhi ríu rít kéo An từ trong chạy ra, miệng la lớn :
- Đó, lạ không ?
An khẽ đập Nhi :
- Anh… anh về hồi nào, con lỏi nó hù em… ở ngoài có ông lính dữ dằn.
Phổ đắm đuối nhìn An, cái dáng mãnh mai, trong sáng làm Phổ chới với. An bước tới phụng phịu :
- Làm gì mà thộn ra thế, tưởng đi luôn không thèm lại nữa.
Phổ bước vào nhà lại gần ghế :
- Hỗm kẹt, viết cả chục lá thư xin lỗi, mà vẫn còn giận… xấu lắm !
- Ai thèm giận, có điều hồi này ông lạ lắm.
Phổ lảng chuyện :
- Đen hả ?
- Đen cái gì ? Lính ai không đen, ông lầm lì thì có, lúc nào cũng hầm hầm như nổi giận.
Giọng An dịu dàng :
- Anh giấu giếm chuyện gì…
- Kể tội đi, còn tội nào kể luôn một hơi, sẵn sàng ngồi nghe cô mắng mỏ.
Nhi chen vô :
- Chị An đang sùng đó, người ta không đi được còn gây.
Phổ cau mặt :
- Đi đâu ?
An sẵng giọng :
- Đi Mỹ… con lỏi này… vô trong đi, bép xép hoài.
Nhi tránh khỏi cái đập của An, nó ngoan ngoãn vừa đi vào vừa nheo mắt nháy Phổ, Phổ vội hỏi :
- Sao kẹt ngang thế ?
Giọng An trầm xuống buồn nản :
- Giấy tờ lộn xộn… chẳng sao, ở nhà gây với anh cũng thích vậy.
Hai ngưòi ngồi xuống ghế, Phổ âu yếm :
- Muốn anh khổ hả ?
- Không hành hạ để ông lộng sao ?
Phổ khẽ kéo tay An :
- Coi xem có thể xuất ngoại được không ?
An ngoan ngoãn đặt tay mình trong tay Phổ :
- Cái đường này nó mờ lắm… Má nói không đi xa được.
Phổ nắm chặt tay An như nắm trọn hạnh phúc của mình, những đường chỉ tay mỏng mảnh, bàn tay bé bỏng xinh đẹp. Hạnh phúc lướt thướt trong trí óc tiếp theo những lo lắng dấy lên, khiến Phổ băn khoăn “nếu đã yêu thích tính hồn nhiên, nhõng nhẽo của An, thì chính những điều đó làm mình khổ tâm đến mệt mỏi”. Phổ thấy đời sống An thênh thang, quang đãng còn mình thì cằn cỗi, u ám. Cái khó làm thế nào để hòa hợp được hai tâm tình đó lại? Giọng An nhấm nhẳng :
- Nói đi chứ… xem gì lâu thế…
- Má nói đúng, đường này mờ…
- Sì ì… Anh chờ đó, em đi cho coi.
Câu chuyện xoay quanh việc học Thủ Đức, thăm hỏi gia đình. Một lát Phổ nhìn qua khung cửa, buổi sáng dịu dàng đến thèm thuồng. Anh quay qua An :
- Đi phố được không ?
- Em lỡ hẹn với con Mai.
- Để giấy lại không được à.
An nguýt dài trề môi :
- Mà đi đâu bây giờ ?
- Tùy em…
- Hứ… anh khôn lắm… chờ em một chút…
An đứng dậy vào trong, Phổ bước gần đến cửa sổ dưới sân những khóm Hoàng Điệp xanh mướt, vài nhánh hoa rực rỡ vươn dài lay động. Phổ buột miệng huýt sáo bản “Summer kisses winter tears”. Một lúc An trở lại, áo dài lụa hồng, Phổ ngây ngất liên tưởng một con chim nhỏ, thật dễ thương đang nhảy nhót trên dậu cây xanh lá.
Phổ đưa An khỏi cổng, An ngẩng mặt nhìn trời :
- Mát quá, đi bộ nghe…?
Hai người sánh vai dọc theo con đường vắng, những hàng cây cao vút, thưa lá, trời cũng êm đềm, vài vạt mây trắng mỏng xà xuống chờn vờn, nắng nhẹ ngập ngừng trên mái ngói đỏ của một biệt thự. An bước sát Phổ, Phổ nhìn xuống vai An thấp dưới tầm mắt, anh thấy ngoan và hiền. Lớp lụa nội hóa trên vai áo nổi bật những mẫu hoa dệt vòng chữ thọ, dệt hình chim phượng hoàng sõa đuôi dài xuống quá cầu vai. Tất cả mọi sự bây giờ êm đềm trong hạnh phúc đáng kính và mỏng manh.
Hình như mọi vật chung quanh đều hòa hợp tuyệt vời. Gió nhẹ nhàng bay động vạt áo An như vẫy gọi, nắng mỏng đến an ủi, con đường thật hiền hòa chạy dài dưới những khung cửa trìu mến của các ngôi biệt thự. Phổ yên lặng tận hưởng những giây phút thần thánh, anh ngó xuống từng bước chân An ngắn đến rụt rè trên cỏ, mũi hài nhung đen cong vút kết những bông cườm lóng lánh.
Phổ thầm cám ơn cuộc đời đã cho anh một đoạn đường thần tiên, khoảnh khắc ngọt ngào như giòng nước mát mẻ chảy qua cuống họng đắng chát trong một buổi trưa nào nắng cháy.
Mới ở Phước Long về, Phổ tính gặp An sẽ nói đủ chuyện, nhưng đến lúc này thì những câu sắp xếp trước đều vỡ vụn trong óc, lời nói trở thành thừa thãi, chỉ còn im lặng, có gì tuyệt vời hơn sự im lặng này, “có khi nào trời sung sướng đến nghẹn ngào không nhỉ ?”.
B ốn tiếng nổ chát chúa, từng loạt súng nổ dòn xé không
gian. Đất cát bốc lên mịt mù. Phổ hoảng hốt nhào ngưòi vào bụi rậm, anh thấy thấp thoáng vài đồng đội trong đám cây quanh đó. Tám nép người vào một gốc cây lớn, nó nâng khẩu trung liên lên và quạt xối xả về phía trước. Đất, cát, cành cây bốc lên hồi nãy bây giờ rớt xuống ào ào, tiếng đạn nổ gắt tứ phía. Phổ gắng gượng kéo thùng đạn trung liên lại phía Tám. Tám vừa thấy Phổ vội quát :
- Đ.M, nằm xuống… chết mẹ bây giờ !
Phổ líu ríu bò tới sát gốc cây. Giọng Tám hồng hộc :
- Đ.M, mày bắn phía trái cho tao…
Phổ vụng về nâng khẩu súng trường, kê lên một rễ cây và bóp cò, súng nổ mạnh, người Phổ dội lại. tám lắp xong băng đạn, quay mũi súng nhắm một bụi rậm bắn cả loạt đạn.
Tiếng hò hét vang lên cùng khắp, Phổ bắn hết kẹp đạn anh chùn người xuống thấp, dùng cả sức nặng của thân thể ấn một gắp đạn vào ổ súng. Tiếng loạt soạt trên đầu, những loạt đạn của địch bắn trả lại, một viên đạn trúng vào thân cây trên đầu Phổ, thân cây tướp ra, những miếng vỏ cây bắn vung vãi.
Tám ôm khẩu trung liên vừa bắn vừa chạy tạt sang một ụ đất bên cạnh, miệng thép lớn :
- Đ.M, chạy sang đây… chết mẹ bây giờ !
Phổ luống cuống quơ lấy thùng đạn nhoài người theo Tám. Tám chiếm được ụ đất, nó đặt cây trung liên xuống và bắn tưới vào phía trước. Tám hối :
- Bắn đi…
Phổ chồi người lên, hướng mũi súng về phía trước bóp cò. Phổ vẫn nghe tiếng xung phong, tiếng súng nổ ầm ầm và súng nhỏ sôi sục. Lúc này, Phổ đã bớt hốt hoảng, anh nhìn rõ phía trước, nơi bụi cây rậm, những tia lửa lóe lên giữa đám lá . Tám quay mũi trung liên về phía đó bắn xối xả, Phổ thấy những tia lửa trong bụi cây tắt ngấm.
Tám quay qua phía trái la lớn :
- Tụi bay bắn tưới cho tao lên.
Phổ quay qua thấy Huân đang tỳ súng vào thân cây nhả đạn, Phổ kẹp chặt khẩu súng bắn tưới về phía trước. Tám lắp xong băng đạn mới, nó nhổm người khỏi ụ đất vừa bắn vừa lao ngưòi hướng tới một gốc cây lớn. Phổ thấy Tám lướt tới vài bước, nó loạng choạng ngã xuống. Phổ cuống cuồng, phát giác ở một bụi cây phía trước thấp thoáng bóng người, anh lúng túng quơ tay lên và đụng nhằm trái lựu đạn dắt trên dây ba lô nơi ngực. Phổ giựt mạnh trái lựu đạn, ghé răng cắn chốt an toàn và tung đại về phía lùm cây. Tiếng nổ dữ dội, cành cây tung lên. Có tiếng la lớn :
- Đ.M, thằng Tám bị rồi.
Phổ thấy Huân nhào lên, kéo Tám lại ụ đất, mặt Tám nhăn nhó, hàm răng cắn chặt lấy môi dưới, khiến Phổ quay mặt đi , Huân cởi áo Tám, bả vai trật ra vết đạn bứt hẳn một miếng thịt. Phổ nhìn rõ vết thương đỏ tươi, những sợi gân trắng và máu rỉ ra chung quanh. Phổ chợp rùng mình . Huân lấy cuộn băng cá nhân dắt trên nón sắt, băng vết thương cho Tám. Người Tám run lên lật bật như bị phỏng, Huân hỏi Tám vài câu nhưng nó chỉ lắc đầu.
Băng cho Tám xong, Huân nhỏm dậy, nhào người ra vồ lấy cây trung liên, kéo về ụ đất tiếp tục nhả đạn.
Một lát sau, tiếng súng đã ngớt, Phổ thấy đồng đội từ các bụi cây quanh đó chạy ào lên. Tiếng đạn đại bác rít ngang đầu xà nổ mạnh phía trước. Trái đạn nổ, như hất Phổ tung lên và anh thấy tức nơi ngực.
Người y tá của trung đội đã bò tới săn sóc Tám. Tiếng đạn đại bác nổ thật gần rồi dãn ra xa, tiếng súng nhỏ cũng thưa dần. Trận chiến xảy ra khoảng hai chục phút thì cánh rừng im tiếng súng, trên tròi đã có những chiếc trực thăng bay tới yểm trợ.
Phổ rời ụ đất bước lại phía lùm cây, anh đã tung trái lựu đạn. Tới lùm cây tơi tả, Phổ đứng khựng hẳn lại, anh nhìn thấy một thây người nát bấy, xác chết bật ngửa, ruột, gan bay mất chỉ còn lại đống thịt xám ngoét bầy nhầy, Phổ lợm giọng muốn ói mửa, anh vội quay mặt đi. Nỗi khiếp đảm và đau đớn cuồn cuộn dâng lên làm Phổ bối rối, anh đứng lặng người. Một lát sau Phổ lấy hai tay bịt chặt lấy đầu. Các cố gắng đó không thể ngăn được những ý nghĩ ghê tởm đổ tới, Phổ cảm thấy bàng hoàng, anh có cảm giác như mình không đứng ở nơi này, anh không tin rằng những sự việc đó đã xảy ra, đã hành động và kết quả khiếp đảm đến thế.
Phổ thất thểu bước trên mặt đất, anh tiến tới lùm cây, cúi xuống đưa bàn tay lật mặt tử thi: Đó là một người lạ, y còn trẻ lắm, đôi mắt trợn ngược trắng dã, Phổ nghe rõ trong đầu “ta có thù oán ngươi không, sao ngươi giết ta?”. Phổ lẩm bẩm một mình : “mày là quân thù… tao giết tất cả quân thù”.
Phổ buông mạnh cánh tay và chiếc đầu tử thi ngúng nguẩy rớt xuống bụi cỏ gai có những bông hoa mầu tím.
Phổ thở hổn hển, anh thấy miệng lưỡi đắng chát, cổ khô hẳn và anh cúi xuống lấy bàn tay vuốt lên đôi mắt xác chết “ngươi hãy nhắm mắt lại, tôi không thể làm gì khác được cho anh, tôi thương anh hơn cả gia đình anh, có ai thân thuộc anh ở đây, chỉ có tôi thôi… rồi kiến lửa sẽ đục khoét đôi mắt này, nước mưa sẽ ngấm vào thân thể, sình thối như chuột chết…”. Phổ đứng dậy đấm mạnh vào đầu, anh nói lớn “không, không nghĩ gì nữa hết !”. Anh rảo bước và loạng choạng đi xuống dưới lộ.
Con đường đất đỏ ngoằn ngoèo chạy giữa rừng cây, mặt đường lầy nhầy, nước mưa đọng từng vũng. Bây giờ nắng đã lên cao, những hàng cây in bóng mát xuống mặt lộ. Toán lính tụ tập ồn ào dưới một gốc cây lớn, họ săn sóc cho những người bị thương. Phổ bước lại, anh thấy Tám ngồi dựa vào gốc cây, hai chân nó duỗi dài trên mặt cỏ bê bết bùn đất. Phổ nhìn kỹ, anh thấy Trung úy Kính trong đám.
Ông ta nằm gối đầu trên một cái sắc, ống quần bên phải bị xé toạc hẳn ra để lộ đùi quấn băng trắng toát. Người y tá ngồi xổm bên cạnh, anh ta đốt điếu thuốc gắn vào môi trung úy Kính, ông ra dấu cám ơn. Phổ bước tới gốc cây ngồi cạnh Tám, anh ghé vào Tám thì thầm :
- Bớt đau chưa mày ?
Tám khẽ gật đầu. Phổ nhìn qua bên kia đường, anh thấy mấy người lính đang khiêng xác đồng đội từ cánh rừng ra đặt xuống ven lộ; Có ba xác chết tất cả. Phổ hoảng hốt hỏi bâng quơ :
- Có người chết sao ?
Người y tá nhanh miệng đáp :
- Ba ngưòi ở Trung đội một.
Phổ thở dài, anh nhìn rõ các tử thi lấm láp bùn đất, các ý nghĩ lao đến làm Phổ chới với, anh cố gắng xua đuổi ý tưởng “nếu ta là Trời Phật, ta sẽ làm cho mọi người sướng hơn nhiều” Phổ không thể hiểu nổi ý nghĩ kỳ lạ này tại sao lại chạy qua khối óc nhức mỏi của Phổ. Trung úy Kính quay đầu lại, Phổ vội hỏi :
- Trung úy bị nhẹ chứ ?
Giọng Kính uể oải nhả theo khói thuốc :
- Một viên vào đùi… Sơ sơ nhưng không đi nổi. Đ.M, không có thằng Bòn nhẩy lên cứu thì đi đứt vì một loạt đạn tiểu liên của tụi nó rồi…
Kính hít một hơi thuốc rồi tiếp :
- Không biết thằng Bòn còn giận tao về vụ hôm trước không, nổi nóng bậy đập nó hơi nặng !
Phổ đáp gọn :
- Ăn nhằm gì Trung úy ơi, thằng Bòn nó ưa nóng hoảng vậy thôi, nó giận ai lâu được !
Người y tá góp chuyện :
- Trời đất, Trung úy mới về chưa biết đó, nhiều khi ở hậu cứ tụi nó gây nhau, nhưng ra trận là dẹp hết.
Phổ nhìn ra đường, anh thấy mấy người lính cắm cúi, sắp xếp ba xác đồng đội. Cử động của họ thật bình tĩnh đến độ lạnh lùng làm Phổ nôn nao. phổ yên lặng ngồi ngó ánh nắng, mặt trời lên cao, những bóng mát thu gọn lại quanh gốc cây. Phổ nhìn thấy Thiếu úy Hoàn, Đại đội phó lăng xăng dưới lộ, ông ta đang ra lệnh cho trung đội chỉ huy dọn dẹp bãi đáp cho trực thăng tới tải thương. Phổ chợt thấy đau xót ở khuỷu tay, anh nhìn xuống và thấy một vết sước thật dài, vết sước trầy da lấm tấm những đóm máu đỏ, những giọt nước vàng bầy nhầy. Phổ thầm nhủ “rồi máu cũng khô đi, chỉ vài ngày vết thương sẽ lành lại”.
Trận địa được thu dọn xong vào lúc xế trưa, trực thăng đáp xuống tải thương, đại đội được lệnh di chuyển về căn cứ.
Từ sáng sớm Phổ chỉ uống một ly cà phê cho tới lúc về trại, Phổ thấy nôn nao nhưng không muốn ăn. Toàn thân bải hoải, rời rã. Phổ nằm nghỉ trong hầm một lúc rồi kéo Huân xuống quán.
Hai người ngồi vào bàn gọi hủ tiếu. Một lát, Chanh bưng hai tô hủ tiếu đặt trên bàn. Phổ nhìn vào tô hủ tiếu bốc khói và thấy ngại ngùng. Huân cầm đũa ăn ngấu nghiến, hình như nó đói lắm, vừa nhai Huân vừa giục Phổ :
- Ăn đi mày… bộ đau hả ?
Phổ đáp gọn :
- Không.
Phổ cầm lấy đũa uể oải vớt từng sợi bánh, miệng lưỡi anh lạt nhạt, cổ họng như thắt lại, Phổ phải cố gắng nuốt từng miếng một. Huân nhìn Phổ ăn lắc đầu :
- Ăn uống gì khều khều vậy ?
Phổ quơ đũa gắp một viên thịt đưa lên miệng, viên thịt lẫn xương và răng Phổ chợt ghê buốt, đúng là nhai nhằm chiếc răng đã cắn chốt lựu đạn rồi, Phổ nghĩ thế. Anh nhìn xuống tô hủ tiếu hết muốn ăn nữa, tô hủ tiếu với những miếng thịt bầy nhầy. Hình ảnh tử thi chết nát bấy vì lựu đạn tràn ngập trong đầu. Phổ muốn ói mửa, anh quơ tay lấy ly cà phê đá uống vội. Từ bàn kế bên mấy người lính của trung đội Một vừa ăn uống vừa kể lại trận đánh. Toán Xích hầu của Trung đội Một vừa tới khúc quẹo của con lộ, họ tình nghi có địch nên đã dừng lại. Khi đó một trái mìn đặt bên lề đường phát nổ, hai người lính ngã xuống và trận đánh khởi đầu. Địch từ các cao điểm hai bên lề đường bắn xuống xối xả. Cả Đại đội tạt ngang vào khu rừng bắn lại. Trung úy Kính từ phía dưới xông lên điều động Trung đội Một và ông đã lãnh một viên đạn vào đùi. Một người vừa gặm cái đùi gà vừa nói :
- Đ.M, tụi nó để lại hai xác, một cái nát bấy vì lựu đạn.
Phổ nhăn mặt, anh cố gắng xua đuổi cái hình ảnh ghê tởm ùa đến. Giọng nói ồn ào tiếp tục :
- Đại úy Tiểu đoàn trưởng nghe báo cáo la dữ, nhưng sau khi biết Trung úy bị thương ổng nín luôn.
Một giọng khác góp chuyện :
- Như thế mình chết ba, bị thương hai, kể như thua tụi nó.
- Đ.M, bị chết ít thế là phước rồi, phục kích mà !
- Chỉ tội mấy thằng chết.
- Hình như vợ thằng Đực mới sanh gì đó ?
- Quê nó ở đâu mày ?
- Dưới Búng… nghe tin này bà Xã nó dám xỉu lắm.
- Đ.M. Chết chóc là chuyện thường, tao thấy nhiều con mẹ chưa lãnh tiền tử đã có chồng khác rồi.
Phổ đưa mắt nhìn ra ngoài, anh thấy chị vợ lính đang làm cá, tay chị cầm con dao lớn chặt xuống, con cá nằm chình ình trên mặt thớt. lưỡi dao phản chiếu ánh nắng lấp lóe làm Phổ nheo mắt, anh ta vội quay đi.
Phổ chỉ chịu đựng sự mệt mỏi cho đến chiều tối, anh lên cơn sốt phải nằm luôn tại hầm. Bệnh sốt rét nín nhịn từ lâu được dịp hành hạ Phổ. Huân phải dùng hai cái chăn dạ đắp cho Phổ, nhưng vẫn thấy Phổ rên hừ hừ, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập, Huân lấy luôn chiếc poncho đắp lại cho Phổ. Chiếc poncho bí hơi chỉ làm cho Phổ khó chịu hơn, sự đắp điếm bên ngoài không thể làm dịu được cơn sốt rét. Cái rét lạnh buốt ở trong máu, trong xương, tủy toát ra. Mặc dù trước đó, Phổ đã được Huân tống cho hai viên chloroquine, nhưng cơn sốt vẫn không thuyên giảm.
Phổ cắn chặt hai hàm răng lại, để ngăn hơi thở, nhưng dù Phổ nín chịu cách mấy , co quắp chân tay đến thế nào thì hơi thở cũng phát ra hừ hừ. Phổ tự nghĩ đã làm phiền Huân quá nhiều, hình như tấm sạp gỗ cũng run lên theo cơn sốt, Phổ càng ái ngại khi thấy Huân lục đục suốt đêm chăm sóc cho mình.
Gần sáng Phổ mệt đến thiếp đi, Huân vội kêu bè bạn phụ với nó đưa Phổ qua bệnh xá. Khi bè bạn đem Phổ ra sân, Phổ chợt tỉnh. Anh thấy láng máng trong ý nghĩ đuối ngã một khung trời nhạt nhòa, vài vì sao lẻ loi, băng giá.
Nằm bệnh xá Tiểu đoàn qua đêm , sáng hôm sau Phổ được đưa đi bệnh xá Trung đoàn tại Phước Long. Bệnh tình Phổ thuyên giảm, nhưng người Y tá trưởng nói rằng bệnh sốt rét phải chữa lâu mới dứt nọc. Những ngày nằm bệnh xá thật buồn, Phổ chỉ mong sớm được trở về đơn vị gặp bè bạn. Phổ nằm ba ngày thì được Huân lên thăm, Phổ vui mừng nhận được hai lá thư một của Cúc, một của Thúy An, Phổ vội xé ngay bức thư của Cúc để biết được tin nhà. Cúc gửi thư tay từ Phước Thiền lên và vì thế Cúc viết rõ tình cảnh của gia đình, từ việc Huỳnh bị Mặt Trận nghi kỵ, ép buộc phải đưa mẹ vào Hang Nai sống với vợ và các con anh.
Nhắc tới việc khuyên Phổ trốn về, Cúc viết rõ Huỳnh đã trả lời thẳng với mấy người cán bộ là anh không thể bắt buộc Phổ được vì từ lâu Huỳnh đã đoạn tuyệt với Phổ. Cúc cũng cho Phổ hay rằng nếu Phổ trốn về chưa chắc đã giúp gì cho Huỳnh mà còn nguy hiểm vì không thể nào tránh thoát phải nhận súng chiến đấu cho Mặt Trận. Càng đọc, Phổ càng phân vân lo lắng cho gia đình hơn. Cúc dặn Phổ giữ liên lạc thường xuyên bằng thư về địa chỉ của bà Hải ngoài Phước Thiền, Cúc có thể lén lút ra ngoài đó được. Các khó khăn của gia đình càng lúc càng lớn hơn, Phổ tưởng như hoàn cảnh của mình bị xiết lại giống cái nút của sợi dây treo võng cột bên giường. Phổ thấy khó có thể làm được gì, để tháo gỡ trói buộc cho gia đình, chỗ chính bản thân anh, Phổ trấn an khi nghĩ đôi lúc cứ ì ra, cũng là một cách giải quyết và biết đâu các khó khăn không qua khỏi.
Khi đọc thư Thúy An Phổ thấy dễ chịu hơn, những dòng chữ tràn đầy tự tin, tràn đầy hy vọng. An cũng tỏ ra thông cảm với sự vội vàng di chuyển của đời sống nhà binh, những trách móc nhẹ nhàng của An, khiến Phổ hiểu rằng An vẫn còn nhõng nhẽo như ngày nào mới gặp. Một điều làm Phổ suy nghĩ nhiều nhất là An cho biết có hy vọng đi du học ở Hoa Kỳ. Những sung sướng vui tươi của An đôi khi làm Phổ lo lắng, bởi vì chỉ có Phổ hiểu rõ gia đình An, trong khi An rất mù mờ về hoàn cảnh Phổ. Càng yêu An, Phổ càng lúng túng không biết có nên nói rõ cho An biết về các khó khăn của mình không, điều đó có ích lợi gì. Cái kinh nghiệm vốn có của Phổ trong vụ trục trặc với Hằng, mất Hằng đã được bè bạn kết luận là bởi Phổ quá thành thực, quá vội vàng trong sự chia sẻ những rắc rối riêng tư của mình. Khi yêu An, Phổ đâm ra nhát sợ đủ chuyện, những rụt rè, phân vân càng để lâu, càng cao đầy khiến Phổ không còn muốn nhắc nhở tới nữa. Phổ linh cảm thấy giữa Phổ và An còn muôn vàn ngăn cách muốn san phẳng các dị biệt này cũng phải mất một thời gian lâu dài và phải vô cùng kiên nhẫn.
Ở bệnh xá được hơn một tuần lễ thì Phổ được xuất viện trở về đơn vị. Ngày về căn cứ, Phổ vừa xuống khỏi chiếc GMC thì Thượng sĩ Ngữ đã chạy lại đứng nghiêm chào Phổ :
- Chào Chuẩn úy.
Phổ lính quýnh không hiểu ông Ngữ chơi trò gì lạ vậy, anh nói :
- Thôi tía, phá con hoài.
Thượng sĩ Ngữ niềm nở vỗ vai Phổ :
- Tôi báo tin mừng cho… anh được gọi đi học Thủ Đức…
- Thiệt không Thượng sĩ ?
- Ai đùa làm gì, có điều ra trường đừng quay lại phạt trả thù tụi này thì tội lắm…
Phổ reo vui :
- Thôi mà tía…
Cái tin được điều chỉnh trình trạng đi học Thủ Đức sau gần một năm mắc kẹt làm Phổ sung sướng, nhưng sau đó Phổ lại buồn buồn, anh thầm nhủ “thoát khỏi cảnh này đi học dù sao cũng đỡ khổ hơn”, nhưng một cái gì đó trắc ẩn trong lòng, Phổ thấy mất mát đủ thứ nào bè bạn, những thói quen hằng ngày, từ căn hầm vững chắc, tường cây ghép vỏ sù sì chặn ngang lớp đất dày, anh tin rằng nằm trong địch có pháo kích cũng chẳng ăn thua gì, nào cái lỗ châu mai Phổ đã từng đứng mỗi chiều ngắm cánh rừng cao su xanh ngợp bên ngoài, khoảng trống ở quán Hạ sĩ Bé, có thể ngồi đó vừa uống cà phê vừa nhìn con nít chạy nhảy trên các bờ công sự mỗi buổi chiều. Ý nghĩ phải rời bỏ các thói quen, các vặt vãnh ấy làm Phổ chợt xót xa, lạc lõng.
Lo xong thủ tục, Phổ về Sàigòn chờ trình diện nhập học. Sống với Đằng ở Bàn Cờ, sinh hoạt của đám bè bạn cũ làm đảo lộn hết nếp sống lính tráng của Phổ. Anh lao vào cái sinh hoạt xô bồ, ồn ào của bè bạn và thấy được tự do hơn bao giờ.
Những sôi nổi tràn đầy sức sống bề mặt qua đi, anh vẫn thấy một ám ảnh nào đó vây phủ mọi người, Phổ ít thắc mắc về đời sống riêng của mỗi người, nhưng đôi lần Phổ không khỏi bực mình khi thấy những hành động diễu cợt quá trớn của bằng hữu. Phổ chợt thấy mình lạc lõng trong những cuộc chung vui, anh băn khoăn không biết mình già đi hay đời sống quân ngũ đã biến anh có thói quen chấp nhận một vài trật tự nào đó. Các diễu cợt của bằng hữu trưóc đời sống, nhiều khi đùa cợt vô tình đã gây ra kết quả tàn bạo. Quang đã vô tình khởi xướng một cuộc bãi khóa chỉ vì đang lúc hứng nghe một cô gái thách đố và kết quả nhiều bạn bè bị bắt, bị đánh đập, nhiều người khác bị khổ.
Phổ tâm sự với Đằng về những băn khoăn đó. Đằng nói thẳng thừng “việc đếch gì thắc mắc, sống được là sống, thằng đi lính như mày thì còn chó gì mà giữ gìn, đứa trốn lính thì có mặc cảm mất tự do, thằng đi học thì đéo thấy tương lai, học giỏi, học dở cũng vào lính, sống trên những bấp bênh, những bất an, tội chó gì không xả láng để gỡ gạc, hơn nữa, mình cũng là trò đùa của nhiều thằng rồi thì tại sao vồ được cơ hội không vui vẻ đáp lễ lại, đó cũng là một trò đùa nghiêm chỉnh”. Câu nói của Đằng ít nhiều làm Phổ nghĩ ngợi. Từ trước, Phổ nghĩ chỉ những đứa kẹt lính mới không thể tính chuyện lâu dài được, Phổ không ngờ những đứa còn là dân sự cũng mắc cạn hết.
Hình như niềm tin của tất cả bằng hữu đã cháy vèo tàn lụi. Mọi người đổ dồn các ẩn ức, các thua thiệt, bất mãn vào sự phá phách. Có lần Quang nói đùa “phá phách cũng là một lối thoát đầy hấp dẫn, đầy cảm giác chứ bạn ?”.
Thảm kịch chung cho tất cả và mọi người đều đáng tội nghiệp, không ai cứu thoát được ai, sự trông cậy ở Đức Chúa Trời, Đức Phật thì quá mòn mỏi. Từng người tìm kiếm cho mình những cảm giác riêng lẻ, cảm giác ấy thế nào tùy thích, nhưng sống là cảm giác; Mỗi lần hoang mang như thế Phổ lại thấy hình ảnh của mẹ thật an ủi. Hình ảnh của Thúy An thật dịu dàng. Đó là bóng mát cuối cùng mà Phổ có thể tìm được để ngơi nghỉ. Phổ thầm nghĩ “ít ra mình vẫn còn những nơi đó để bám vào mà sống”.
Nghĩ tới An, đột nhiên Phổ rời khỏi giường, anh tự hỏi “sao không tới gặp An bây giờ ?”. Đẩy cửa bước ra ban công, buổi sáng trời thật đẹp, mặt trời ngủ vùi trong sương mù, thốt nhiên Phổ thấy xao xuyến lạ thường. Thời tiết như những ngày đầu thu trên Đà lạt.
Phổ quay vào nhà thay quần áo rồi mới đi gặp An. Suốt đoạn đường, Phổ cố gắng phân tích chính mình để tìm thấy lý do tại sao về Saigon không gặp An ngay, một phần có thể vì các thú vui của bè bạn lôi đi, một phần tại mình đầy rẫy những mặc cảm, những thua thiệt nên ngại gặp An, còn lại đủ thứ lặt vặt khác.
Phổ đã chẳng hề tìm được lý do chính nào, nhưng ngôi nhà yêu mến đã hiện ra trước mặt. Phổ đưa tay nhấn đại chuông điện để lẩn tránh những băn khoăn tung rối của mình. Cửa phòng khách bật mở, Phổ nhìn thấy Thúy Nhi chạy ra, Nhi hớn hở đến nũng nịu :
- Anh… Anh…
Cô bé đưa tay kéo chốt cửa, Phổ bước vào vuốt má Nhi :
- Nhi lớn quá, trông lạ ra…
Nhi tựa vào cánh cửa bĩu môi, nó dọa :
- Chị An đang sùng đó !
Phổ kéo tay cô bé :
- Ba , má có nhà không em ?
Nhi đưa ngón tay lên miệng nheo mắt :
- Đi vắng hết, có mình em à.
Phổ béo mũi cô bé, nhíu mày :
- Cả chị An nữa ?
Nhi mím môi gật đầu rồi vùng thoát khỏi tay Phổ chạy vào nhà. Phổ nhìn theo cô bé và biết chắc rằng bị Nhi gạt, anh thầm nghĩ “mới mười một tuổi mà đã ranh thế, con nít lúc này khá thật”. Phổ bước lên thềm, Nhi ríu rít kéo An từ trong chạy ra, miệng la lớn :
- Đó, lạ không ?
An khẽ đập Nhi :
- Anh… anh về hồi nào, con lỏi nó hù em… ở ngoài có ông lính dữ dằn.
Phổ đắm đuối nhìn An, cái dáng mãnh mai, trong sáng làm Phổ chới với. An bước tới phụng phịu :
- Làm gì mà thộn ra thế, tưởng đi luôn không thèm lại nữa.
Phổ bước vào nhà lại gần ghế :
- Hỗm kẹt, viết cả chục lá thư xin lỗi, mà vẫn còn giận… xấu lắm !
- Ai thèm giận, có điều hồi này ông lạ lắm.
Phổ lảng chuyện :
- Đen hả ?
- Đen cái gì ? Lính ai không đen, ông lầm lì thì có, lúc nào cũng hầm hầm như nổi giận.
Giọng An dịu dàng :
- Anh giấu giếm chuyện gì…
- Kể tội đi, còn tội nào kể luôn một hơi, sẵn sàng ngồi nghe cô mắng mỏ.
Nhi chen vô :
- Chị An đang sùng đó, người ta không đi được còn gây.
Phổ cau mặt :
- Đi đâu ?
An sẵng giọng :
- Đi Mỹ… con lỏi này… vô trong đi, bép xép hoài.
Nhi tránh khỏi cái đập của An, nó ngoan ngoãn vừa đi vào vừa nheo mắt nháy Phổ, Phổ vội hỏi :
- Sao kẹt ngang thế ?
Giọng An trầm xuống buồn nản :
- Giấy tờ lộn xộn… chẳng sao, ở nhà gây với anh cũng thích vậy.
Hai ngưòi ngồi xuống ghế, Phổ âu yếm :
- Muốn anh khổ hả ?
- Không hành hạ để ông lộng sao ?
Phổ khẽ kéo tay An :
- Coi xem có thể xuất ngoại được không ?
An ngoan ngoãn đặt tay mình trong tay Phổ :
- Cái đường này nó mờ lắm… Má nói không đi xa được.
Phổ nắm chặt tay An như nắm trọn hạnh phúc của mình, những đường chỉ tay mỏng mảnh, bàn tay bé bỏng xinh đẹp. Hạnh phúc lướt thướt trong trí óc tiếp theo những lo lắng dấy lên, khiến Phổ băn khoăn “nếu đã yêu thích tính hồn nhiên, nhõng nhẽo của An, thì chính những điều đó làm mình khổ tâm đến mệt mỏi”. Phổ thấy đời sống An thênh thang, quang đãng còn mình thì cằn cỗi, u ám. Cái khó làm thế nào để hòa hợp được hai tâm tình đó lại? Giọng An nhấm nhẳng :
- Nói đi chứ… xem gì lâu thế…
- Má nói đúng, đường này mờ…
- Sì ì… Anh chờ đó, em đi cho coi.
Câu chuyện xoay quanh việc học Thủ Đức, thăm hỏi gia đình. Một lát Phổ nhìn qua khung cửa, buổi sáng dịu dàng đến thèm thuồng. Anh quay qua An :
- Đi phố được không ?
- Em lỡ hẹn với con Mai.
- Để giấy lại không được à.
An nguýt dài trề môi :
- Mà đi đâu bây giờ ?
- Tùy em…
- Hứ… anh khôn lắm… chờ em một chút…
An đứng dậy vào trong, Phổ bước gần đến cửa sổ dưới sân những khóm Hoàng Điệp xanh mướt, vài nhánh hoa rực rỡ vươn dài lay động. Phổ buột miệng huýt sáo bản “Summer kisses winter tears”. Một lúc An trở lại, áo dài lụa hồng, Phổ ngây ngất liên tưởng một con chim nhỏ, thật dễ thương đang nhảy nhót trên dậu cây xanh lá.
Phổ đưa An khỏi cổng, An ngẩng mặt nhìn trời :
- Mát quá, đi bộ nghe…?
Hai người sánh vai dọc theo con đường vắng, những hàng cây cao vút, thưa lá, trời cũng êm đềm, vài vạt mây trắng mỏng xà xuống chờn vờn, nắng nhẹ ngập ngừng trên mái ngói đỏ của một biệt thự. An bước sát Phổ, Phổ nhìn xuống vai An thấp dưới tầm mắt, anh thấy ngoan và hiền. Lớp lụa nội hóa trên vai áo nổi bật những mẫu hoa dệt vòng chữ thọ, dệt hình chim phượng hoàng sõa đuôi dài xuống quá cầu vai. Tất cả mọi sự bây giờ êm đềm trong hạnh phúc đáng kính và mỏng manh.
Hình như mọi vật chung quanh đều hòa hợp tuyệt vời. Gió nhẹ nhàng bay động vạt áo An như vẫy gọi, nắng mỏng đến an ủi, con đường thật hiền hòa chạy dài dưới những khung cửa trìu mến của các ngôi biệt thự. Phổ yên lặng tận hưởng những giây phút thần thánh, anh ngó xuống từng bước chân An ngắn đến rụt rè trên cỏ, mũi hài nhung đen cong vút kết những bông cườm lóng lánh.
Phổ thầm cám ơn cuộc đời đã cho anh một đoạn đường thần tiên, khoảnh khắc ngọt ngào như giòng nước mát mẻ chảy qua cuống họng đắng chát trong một buổi trưa nào nắng cháy.
Mới ở Phước Long về, Phổ tính gặp An sẽ nói đủ chuyện, nhưng đến lúc này thì những câu sắp xếp trước đều vỡ vụn trong óc, lời nói trở thành thừa thãi, chỉ còn im lặng, có gì tuyệt vời hơn sự im lặng này, “có khi nào trời sung sướng đến nghẹn ngào không nhỉ ?”.
Chương 4 / Chiến Trường Tồi Tệ - Ngô Đình Vận
4
C úc nép mình bên cánh cửa, qua vết gỗ nứt dài, Cúc nhìn rõ khu vườn lóng lánh ánh trăng. Đêm mười sáu vườn cây tràn ngập ánh sáng dịu dàng, từng đợt gió lay động cành lá làm ánh sáng nhảy múa oằn oại trong bóng cây đen xẫm. Cúc thầm nghĩ, trăng hôm nay phải tròn và đẹp lắm. Từ vị trí này Cúc chỉ có thể ngắm được khu vườn bên ngoài, cô không thể nhìn thấy trăng được. Đã từ lâu rồi, đã từ rất lâu, Cúc không còn được ra ngoài vườn nhìn trăng như thuở nào bình yên.
Nhìn ánh sáng tràn ngập ngoài vườn, Cúc thấy nôn nao lạ thường, hình như Cúc thấy mình nhỏ bé và đang bị cái ánh sáng kỳ dị, quyến rũ đó tràn ngập. Toàn thân Cúc rung động, cô ngước mắt lên cao để nhìn được ánh trăng, nhưng dù ngước lên đến thế nào, đỉnh cao tận cùng của vết gỗ nứt cũng chỉ chạm vào mái tôn, nơi đó Cúc nhìn thấy ngọn đèn chai leo lét. Mắt Cúc chạm phải ngọn đèn, sự đam mê như ngã xuống. Cô nhớ ngay được lệnh của lính đồn “đêm đến phải treo đèn trước nhà, cấm không được ai đi lại”. Lệnh đó từ hồi nào Cúc không hề hay biết, nhưng việc treo đèn chai, ngồi yên trong nhà nó đã là một thói quen của Cúc, của mọi người ở vùng này. Cũng từ lâu lắm, cứ tối đến sau khi treo đèn, đóng cửa kỹ lưỡng là Cúc chui vô hầm ngủ với bà Năm, Cúc đã quên ánh trăng, không hề biết tới sự quyến rũ tuyệt vời của vườn cây một đêm trăng sáng. Chiều nay khi được bà Hai đưa cho lá thư của Phổ gửi về, Cúc mừng đến run rẩy, “thế là chú Phổ đã lên tới Phước Long bình yên”. Từ hôm Phổ đi Cúc bỗng băn khoăn cho Phổ lạ lùng, buổi chiều tựa cửa nhìn ra vườn, bóng tối dâng lên buồn muốn khóc. Lúc chiều Cúc xem thư, một cái Phổ gửi cho bà Năm, một cái Phổ gửi cho anh Huỳnh, nhìn giòng chữ vững vàng của Phổ thốt nhiên Cúc tin rằng “chú Phổ vẫn được khỏe”. Cô cầm hai lá thư chạy thẳng vào nhà, đến bên bà Năm reo mừng :
- Có thư chú Phổ.
Cúc run rẩy xé bao thư rồi đọc lớn cho bà Năm nghe. Trong thư Phổ nói đã lên tới Phước Long bình yên, lo lắng về sức khỏe của mẹ và nhiều lần dặn dò Cúc săn sóc, lo liệu việc nhà. Thư gửi anh Huỳnh thì Phổ vắn tắt vừa an ủi Huỳnh vừa nhắc Huỳnh suy tính kỹ để đối phó với cảnh khó xử hiện tại. Đọc xong thư, bà năm khóc làm cô sụt sịt khóc theo.
Cúc có cảm giác cứ để cho nước mắt trào ra thì dễ chịu hơn nín nhịn nhiều. Bà Năm nói Cúc cất giữ thư Phổ để tìm dịp về Phú Hội trao Huỳnh. Suốt buổi tối, không lúc nào Cúc không nhớ tới Phổ, dọn dẹp xong Cúc vào hầm nằm ngủ, nhưng trằn trọc không thể nhắm mắt được. Cúc nghĩ sẵn cách viết thư, cách gửi thư cho Phổ. Cô tưởng tượng ra cả vùng Phước Long rừng rú và dáng Phổ lênh đênh in dài trên nền cây xanh thẫm đó. Những ý nghĩ vui buồn quấn quít lấy nhau, phức tạp, đổ dồn trong óc làm Cúc bối rối, cuối cùng Cúc đành phải vùng dậy ra ngồi tựa bên cánh cửa. Cô thầm ao ước trời sáng ngay bây giờ, cô có thể mở cửa ra chợ mua giấy bút viết thư cho Phổ. Cúc thầm trách buổi chiều đã quên khuấy điều này. Bồng bềnh với ý nghĩ hỗn tạp, Cúc quay qua và đụng ánh sáng tuyệt vời ngoài vườn. Từ đó, cô đã mê mải ngắm nhìn ánh trăng qua vết nứt nơi cánh cửa. Cúc nhìn rõ những lá soài dài thượt, lóng lánh ánh trăng chao đi trong gió, Cúc không ngờ có những đêm ngoài vườn đẹp đến múc độ này. Cô thấy thèm khát và muốn được uống ánh sáng xanh biếc long lanh đó.
Vườn cây trái ngập ánh trăng đưa Cúc về với tuổi thơ khi còn ở Phú Hội. Cúc thấy mình nhỏ bé, nhớ tới khuôn mặt từng người trong gia đình, ba, má, các em. Ý tưởng lướt nhanh trong quá khứ thơ ấu và đưa Cúc lớn dần. Cảm giác đau đớn cùng độ khi được tin gia đình chết trọn vì đại bác, lại một lần nữa hành hạ Cúc. Nỗi đau đớn cùng độ tưởng như chết hẳn trong lòng, lại cuồn cuộn dâng lên làm nước mắt chảy ra dàn dụa. Cơn đau đớn ấy bao giờ cũng làm Cúc bơ vơ, lạc lỏng và cuối cùng thì Cúc chỉ còn thấy có một hình ảnh nương tựa duy nhất trên đời, đó là chú Phổ. Bao giờ thì hình ảnh Phổ cũng hiện ra trong trí óc như dỗ dành và Cúc thấy đỡ đau đớn, cô quạnh. Cúc nghe rõ tiếng Phổ âm thầm “cuộc đời nào cũng khổ sở hết, ráng nương nhau mà sống”. Cúc không thể nhớ Phổ đã nói với Cúc trong trường hợp nào, nhưng đã thuộc lòng câu nói đó và thấy được an ủi.
Ngoài sân một con mèo nhỏ dón dén lại gần mái nước, con mèo thè lưõi liếm trên nắp mái còn đọng nước mưa, phản chiếu ánh trăng lóng lánh. Nghĩ tới Phổ, bỗng nhiên Cúc thấy ngượng ngùng, Cúc nhớ rõ giấc mơ hôm trước, Phổ đứng nói chuyện với Cúc sau nhà rồi hôn lên má, hơi thở của Phổ làm Cúc run lên, khi môi Phổ đụng vào da thịt, Cúc thấy da thịt mình nó nổ bừng, lạnh toát, tan ra và bốc hơi như sương khói. Mỗi lần nhớ tới, Cúc có cảm giác phạm tội, cô cố gắng xua đuổi giấc mơ kỳ dị đó đi, nhưng Cúc càng đàn áp, trí óc càng thắc mắc, không hiểu tại sao mình đã nằm mơ như vậy. Giấc mơ làm cho Cúc ngượng ngập, bẽn lẽn với chính mình, cô đã từng chống cưỡng lại ý nghĩ lạ lùng đổ đến bằng cách nắm chặt lấy tóc mai giựt mạnh và thầm thì “không, không thể như vậy được, chú Phổ là chú Phổ, cháu là cháu của chú…” dù Cúc cố gắng chống cưỡng những ý nghĩ vô tình thế nào thì Cúc cũng buồn bã đến bải hoải khi nghĩ rằng Phổ vẫn chỉ coi mình như một cô em. Cúc không hề thấy một dấu hiệu gì chứng tỏ Phổ có cảm tình đặc biệt với mình và cô thấy tủi thân. Cúc càng phân vân hơn, khi thấy rằng mình vừa muốn chống cự, muốn xua đuổi ý nghĩ yêu Phổ, vừa muốn chuyện đó xảy đến. Mỗi lần bối rối, Cúc phải túm lấy tóc mai giựt mạnh đau đến chảy nước mắt.
Cúc ngồi bên khe cửa với các ý nghĩ lẻ loi cho đến khi mệt quá gục xuống thiếp ngủ.
Giấc ngủ chập chờn làm Cúc mệt rồi rũ rượi, tới gần sáng cô mới tỉnh dậy và không ngờ cả đêm đã nằm vật bên cánh cửa này.
Cúc cố gắng đứng dậy mở cửa ra sân, trời đục, sương xuống mù mịt, cây cối trong vườn ướt đẫm. Không khí mát mẻ làm Cúc tỉnh táo lại dần. Cúc tính đi mua giấy viết thư cho Phổ, nhưng cô nghĩ nên đợi bà Năm thức dậy tính chuyện về Phú Hội, gặp chú Huỳnh trước đã. Bà Năm lúc này đã khỏe và có thể tự lo lấy mọi việc, không còn phải trông cả vào Cúc và vì thế Cúc rảnh rang hơn và có thể ở lại Phú Hội một ngày mà không lo lắng sốt ruột.
Cúc ngồi ngoài hè cho đến lúc bà Năm thức dậy kêu vô và sau khi tính toán đủ chuyện Cúc mới lên đường về Phú Hội.
Toán người về thăm nhà phải băng vườn vì đường lộ còn đầy mô lính đồn chưa phá kịp. Đi trên lộ phần ngại đạp nhằm mìn, phần lo đôi bên đụng độ, bị lọt giữa vòng lửa đạn cũng kẹt. Cúc nhập bọn với năm người đàn bà lối xóm vượt ngang các vườn trầu, vườn hồ tiêu trồng xen kẽ cây ăn trái, bóng mát dịu dàng, chim chóc ríu rít trên cành. Cúc thầm ước ao những ngày bình yên trở lại. Đi khỏi Bến Cam, toán người vượt qua một con lạch nhỏ, mùa mưa nước đầy, mặt nước dềnh lênh ngập cả khu vườn quanh đó. Chị Hải vừa xắn quần lội nước vừa nói :
- Cái mửng này, chắc Cống Lò Rèn lại bị mấy ông giật sập…
Một ngưòi khác góp chuyện :
- Nghe nói họ giật bốn bữa rồi.
Người đàn bà chép miệng rồi tiếp :
- Nước không thoát được tràn lên, vườn cây trái nghẹn nước rồi chết hết.
Toán người bì bõm lội qua mấy thửa vườn nghẹn nước. Cúc nhìn những cây trầu thối gốc, lá úa rũ rượi cô bỗng mủi lòng. Một người đàn bà đạp nhằm miểng chén lằn nhằn :
- Tôi không biết tại sao mấy cha ưng phá nhau hoài, bên đắp, bên phá tối ngày, chỉ dân là mệt !
Tiếng suýt miệng kéo dài tiếp theo giọng nói nhỏ nhẹ :
- Vô tới đây rồi bà nội, giữ mồm giữ miệng một chút.
Vượt khỏi khu vườn bị ngập nước thì tới ranh ấp Phú Hội, toán người đang rảo bước đột nhiên nghe tiếng quát :
- Đứng lại !
Cả đám người hốt hoảng đứng khựng. Cúc bối rối nói nhỏ :
- Chết rồi…
Một người đàn ông lạ mặt tay lăm le khẩu súng từ một bụi cây bước ra, người đàn ông tiến lại gần đưa mắt soi mói nhìn từng người trong đám. Cúc liếc nhìn và đụng nhằm ánh mắt sắc xảo của y khiến cô lung túng cúi mặt. Người đàn ông quay lại phía sau ra lệnh :
- Chú hiệp, ra coi giấy mấy người này cho tôi.
Y vừa nói vừa lùi lại gần gốc cây lớn cầm súng thủ thế, một người thanh niên khác nhảy ra, hắn tiến tới và xét giấy từng người. Mấy người đàn bà vừa trình giấy vừa kể lể vì sợ bom đạn phải bỏ nhà chạy ra Phước Thiền ở đỡ. Người thanh niên vai đeo súng dưới thắt lưng lủng lẳng hai trái lựu đạn, lầm lỳ xem giấy từng người, khi hắn hỏi giấy Cúc, Cúc lúng túng móc túi làm rớt cả đống giấy tờ trên mặt đất. Cúi vội cúi người nhặt lên rồi kiếm tấm thẻ kiểm tra đưa cho người thanh niên. Người thanh niên trừng mắt ngó Cúc giọng nói lạnh lùng :
- Đưa tất cả coi.
Cúc líu ríu đưa xấp giấy cho y, cô thấy lo lắng vì trong đó có cả bức thư của Phổ gửi cho Huỳnh. Người thanh niên lật từng mảnh giấy xem xét kỹ lưỡng, khi y lật tới bức thư của Phổ, Cúc thấy y cau mắt rồi đột nhiên ngó Cúc :
- Người nhà cô đi lính cho Ngụy ?
Cúc đáp vội :
- Dạ… Chú tui…
Ngưòi thanh niên chặn ngang :
- Chú cô đi lính ở đâu ?
- Trên Phước Long.
- Cô vô đây làm gì ?
Cúc cuống quit :
- Dạ… Dạ nhà tôi ở Phú Hội, tui về thăm nhà.
Người thanh niên xốc lại khẩu súng, y lớn giọng :
- Thưa, cô này có chú là lính Ngụy.
Người đàn ông từ gốc cây bước lại cầm lấy bức thư của Phổ trong tay gã thanh niên, rồi cau mặt :
- Giữ cô này lại.
Cúc thảng thốt ngó một ngưòi đàn bà, ông đã sẵng giọng :
- Mấy chị này muốn vô thì đi lẹ đi.
Những người đàn bà líu ríu rảo bước bỏ lại mình Cúc. Cúc hoảng hốt nài nỉ :
- Xin các ông…
Người đàn ông chặn ngang :
- Cô theo tôi.
Hắn đưa Cúc vào một căn nhà tranh gần đó, ở nơi này có cả đám người lạ mặt, Cúc đoán là bộ đội ở xa về.
Cúc được dẫn tới trước một gã đàn ông râu ria lởm chởm đang ngồi trước hiên nhà. Người đàn ông dẫn Cúc lên tiếng :
- Thưa đồng chí Đại Đội Trưởng, cô này có người nhà đi lính Ngụy.
Ngưòi Đại Đội Trưởng ngó Cúc rồi gật gù :
- Người nhà là lính Ngụy, vô đây làm gì…?
Giọng Cúc run rẩy :
- Dạ, chú Hai tui làm việc trong này.
Người Đại Đội Trưởng đứng dậy cầm lấy bức thư của Phổ trong tay gã đàn ông vừa xem hỏi :
- Thư này gửi cho anh Hai, anh Hai của cô tên gì ?
- Dạ… chú Hai tui tên Võ Văn Huỳnh.
Người Đại Đội Trưởng cau mặt tỏ vẻ suy nghĩ rồi hỏi tiếp :
- Thư này của tên Phổ gửi cho anh hắn ?
- Dạ, của chú tôi gửi cho anh ruột.
Người Đại Đội Trưởng rút lá thư đọc, tay Cúc níu lấy cây cột mà cô vẫn thấy run, cô thầm nghĩ trong thư chú Phổ chỉ hỏi thăm qua loa chú Hai, có điều bậy nhất là ngoài phong bì ghi rõ địa chỉ nhà binh của Phổ.
Người Đại Đội Trưởng xem xong lá thư, hắn quay qua :
- Kêu giúp tôi đồng chí Xã đội.
Y ngồi xuống hiên nhà, nhìn Cúc rồi nói :
- Thôi được, cô ngồi chờ đó.
Cúc dón dén ngồi xuống chân cột, cô thấy lo ngại đến bồn chồn, chuyện sơ sót nhỏ nhặt này không khéo lại liên lụy tới chú Hai thì khổ. Cúc ngồi được một lúc thì anh bộ đội dẫn người đội trưởng du kích tới. Người Đại Đội Trưởng đứng dậy nói :
- Đồng chí Xã đội coi xem cô này làm gì, có người nhà đi lính Ngụy.
Anh Xã đội bước đến trước mặt Cúc, cô thoáng thấy quen quen và không nhớ đã gặp hắn ở đâu. Anh Xã đội chưa kịp hỏi Cúc đã bị người Đại Đội Trưởng gọi giật lại :
- Đồng chí cầm luôn cái thư này, điều tra giúp.
Anh Xã đội đưa tay nhận lá thư hỏi Cúc :
- Người nhà cô là ai ?
- Dạ, chú Huỳnh.
- Huỳnh nào ?
- Võ Văn Huỳnh.
Người Xã đội chăm chăm nhìn Cúc, y nhắc lại :
- Võ Văn Huỳnh… sao kỳ vậy nè.
Y đổi giọng gay gắt :
- Cô nói thiệt.
- Dạ, chú tui mà.
Người Xã đội du kích nhăn mặt. Cúc nhìn rõ những vết nhăn xếp trên vừng trán sần sùi. Y có vẻ lúng túng rồi quay qua người Đại Đội Trưởng giọng nhẹ nhàng :
- Thưa đồng chí, cô này khai là người nhà của đồng chí Huỳnh ủy viên kinh tài Phú Hội, có lẽ phải dẫn cô ta vô tuốt xóm Hố, vì bây giờ đồng chí Huỳnh hoạt động trong đó.
Người Đại Đội Trưởng nhìn Cúc rồi nói :
- Thôi được, vụ này tôi giao cho đồng chí, nhớ phải điều tra kỹ, đồng chí cũng ra lệnh cho du kích xã chặn hết những người ở ngoài vô trong này lại, cho đến khi có lệnh mới, để họ ra lộ hết.
Người Xã đội du kích nhận lệnh rồi quay lại nói với Cúc :
- Cô đi theo tôi.
Cúc được dẫn ra khỏi khu vườn cây rậm rồi lên lộ. Từ đó theo đường lộ Cúc được đưa thẳng vào xóm Hố. Suốt đoạn đường người Xã đội du kích không hề hỏi Cúc điều gì. Hai bên đuờng Cúc thấy loáng thoáng bóng dáng những người bộ đội trong các vườn cây. Tới xóm Hố, Cúc được dẫn vào một ngôi nhà gỗ, vừa đến thềm, Cúc đã thấy Huỳnh đang ngồi với hai người lạ mặt quanh một bàn tròn kê giữa căn nhà. Cúc mừng rỡ gọi lớn cầu cứu :
- Chú hai… Chú Hai.
Huỳnh giựt mình nhìn ra, anh tỏ vẻ bối rối khi thấy Cúc, người Xã đội nhanh nhẹn bước vào nhà lên tiếng :
- Đồng chí Huỳnh, cô kia có phải ngưòi nhà đồng chí không ?
Huỳnh lúng túng :
- A… Con Cúc… Cháu nuôi tôi…
Mấy người cùng bước ra ngoài cửa đến gần Cúc. Cô đúng im ngó Huỳnh. Người Xã dội du kích tiếp lời :
- Cô này bị các đồng chí bộ đội giữ lại có bức thư của một tên lính Ngụy gửi cho đồng chí.
Huỳnh cau mặt, đến gần Cúc giọng gắt gỏng :
- Thư nào, ai vậy ?
Ngưòi Xã đội du kích chìa lá thư củ Phổ cho Huỳnh :
- Thư đây… đồng chí có biết tên này không ?
Huỳnh chăm chú nhìn lá thư rồi đột ngột quay lại hỏi Cúc giọng tức giận :
- Cúc… thằng Phổ đi lính hả… nó đi hồi nào…?
Cúc biết rằng Huỳnh cố đánh lạc sự soi mói của những người lạ mặt, cô vội đáp :
- Dạ, chú Phổ bị tụi nó hốt giữa đường rồi tống lên Phước Long ít bữa nay…
Huỳnh vẫn cau có :
- Sao vụ này tôi không biết…?
Cúc ấp úng :
- Khi không bị bắt đi, làm sao biết được, chú Phổ gửi thư về cho bà, cháu mới hay…
Một người lạ mặt đứng lầm lì gần cửa chặn ngay :
- Thôi, vụ này để giải quyết sau.
Hắn gật gù rồi tiếp :
- Vụ này kẹt cho đồng chí Huỳnh lắm đấy !
Cúc thấy rõ Huỳnh lúng túng đến tội nghiệp, người lạ mặt vẫn tiếp tục giọng nói khàn khàn :
- Vào họp tiếp đi, đồng chí Xã đội để vụ này tôi giải quyết… Cô em ngồi đỡ ngoài này chờ chúng tôi một lúc.
Mấy người trở lại ghế, anh Xã đội trưởng bỏ ra đường. Cúc lo lắng ngồi xuống thềm nhà. Buổi họp bên trong lúc thầm thì, lúc lớn tiếng. Cúc nghe tiếng được tiếng không, nhưng cô cũng có thể hiểu qua đưọc câu chuyện bàn quanh việc thâu thuế, việc giựt mìn sập Cống Lò Rèn. Giọng người lạ gay gắt đổ trách nhiệm cho Huỳnh về quyết định giựt mìn Cống, khiến một ngưòi du kích bị lính đồn bắn bị thương. Giọng nói khàn khàn gắt gỏng lọt qua tai Cúc :
- Tôi muốn hỏi rõ đồng chí Huỳnh sao không chịu đào phứt mấy đoạn đường phía trên mà cứ phải giựt Cống Lò Rèn mới được ?
Huỳnh giải thích :
- Sở dĩ tôi cho anh em ra giựt cống ở ngoài cho tiện, phá trong này vừa tốn nhân công, không đạt được kết qủa, đào đường bọn nó vẫn có thể chạy xe được.
Vẫn giọng khàn khàn, giọng nói làm Cúc nhức nhối trong óc:
- Theo tôi biết thì lý do đồng chí Huỳnh nêu ra không có đủ các yếu tố thực tế để bào chữa cho sự lầm lẫn của đồng chí được...
Tiếng Huỳnh lấn át :
- Thưa đồng chí Bí thư…
Giọng khàn khàn cắt ngang :
- Đồng chí để tôi nói dứt đã, theo sự điều tra về vụ này tôi được biết sở dĩ đồng chí quyết định giật sập Cống Lò Rèn là vì hai lý do, thứ nhất đồng chí ngại điều động nhân công trong xã để đào bứt hai trăm thước đường phía trong, thứ hai khi đồng chí được đề cử tạm thời thay thế đồng chí xã đội mắc đi công tác, đồng chí đã xử dụng du kích mạo hiểm ra tận ngoài cống đặt mìn vì đồng chí muốn mấy mẫu vườn của tên Hớn nghẹn nước, nhằm trả thù vụ tranh đất trước đây !
- Không, tôi không hề có các ý nghĩ đó.
Giọng người Bí thư chậm rãi :
- Đồng chí Châu cho biết ý kiến.
- Dạ… thưa, theo tôi biết là vụ này có nhiều yếu tố đặc biệt. Đồng chí Huỳnh từ trước vốn có thái độ lừng chừng, không dám điều động cũng như ít tích cực thâu thuế của nhân dân đúng mức, hơn nữa, đồng chí Huỳnh hay lợi dụng công việc chung để giải quyết các quyền lợi cá nhân. Theo tôi biết thì chuyện tranh chấp giữa đồng chí Huỳnh và tên phản động Hớn có từ bảy năm trước, bởi thế bây giờ đồng chí Huỳnh mới không dám bỏ đây chạy ra Phước Thiền, tên Hớn hiện làm cảnh sát ngoài đó và nó đe nếu gặp đồng chí Huỳnh sẽ bắn bỏ.
Người Bí thư cướp lời :
- Bởi thế việc hoạt động của đồng chí Huỳnh cho Mặt Trận, cho đảng vẫn là sự miễn cưỡng…
Huỳnh chặn ngang :
- Xin đồng chí Bí thư hiểu rõ là tôi tích cực hoạt động…
- Đồng chí tích cực để gia đình chạy ra Phước Thiền, em đồng chí đi lính cho Ngụy ?
- Tôi phải cho con Cúc đưa má tôi ra ngoài đó vì má tôi suyễn kinh niên, chạy vào Hang Nai sợ phải di chuyển bất tử thì kẹt, còn thằng Phổ nó trốn lính, đi học về bị tụi nó bắt ngang làm sao cản được.
Cuộc bàn cãi đột nhiên im lặng. Cúc càng lo lắng cho Huỳnh, cho gia đình hơn.
Cúi nhìn những con kiến đang tha trứng nối đuôi nhau thành hàng dài trên cột gỗ. Giọng nói khàn khàn lại đập vào tai Cúc :
- Thôi đưọc, tôi yêu cầu đồng chí tích cực đẩy mạnh các công tác hơn nữa, đồng chí cũng nên đem bà cụ vô trong này và liên lạc kêu tên Phổ về với Mặt Trận…
Cúc nghe rõ tiếng xô ghế và thấy mấy ngưòi bước ra khỏi cửa, cô khép nép đứng dậy. Hai ngưòi lạ bước nhanh khỏi khoảng sân lát gạch ra lộ, Huỳnh quay lại vừa trông thấy Cúc đã lớn tiếng :
- Mày loạng quạng thế nào mà để họ bắt đuợc thư ?
Cúc đứng yên nước mắt dàn dụa, Huỳnh nhìn sững Cúc một lát, đột nhiên anh thở dài :
- Chuyện lỡ hết trơn… tao đã dặn kỹ là dấu kín chuyện thằng Phổ, khi không…
Cúc ấp úng :
- Cháu, cháu…
Huỳnh nhăn nhó xoè hai tay :
- Kẹt hết… thôi được, bây giờ mày tạm về Phú Hội, ở nhà đợi đó, tao lo mấy công tác xong, lo giấy tờ để mày ra Phước Thiền rước má vô, họ bắt buộc như thế… còn chuyện thằng Phổ nữa…
Huỳnh thở dài hỏi Cúc :
- Má hết suyễn chưa ?
Cúc sụt sịt :
- Dạ, hết rồi chú.
Huỳnh nhìn Cúc, giọng nói an ủi :
- Biết làm sao hơn được, thôi ráng vô trong ở với thím và mấy em vậy.
Cúc vội hỏi :
- Thím và mấy em vẫn ở Hang Nai.
Huỳnh chán nản :
- Ờ, vẫn lẩn quẩn trong đó. Ra ngoài này đâu được, bom đạn càn quét dài dài… mày cũng liệu giữ gìn sức khỏe, trông hốc hác lỡ bệnh thì khổ…
Cúc vịn vào cây cột hỏi lại :
- Bây giờ chú phải đi đâu ?
- Bị giao công tác đủ thứ… thôi về gấp Phú Hội đi, tao phải chạy qua Phú Mỹ gấp.
Không để Cúc kịp nói, Huỳnh đã quay người đi ra. Còn một mình trong căn nhà xa lạ, thốt nhiên Cúc không cầm được nước mắt, cô gục đầu vào cánh tay khóc nức nở.
C úc nép mình bên cánh cửa, qua vết gỗ nứt dài, Cúc nhìn rõ khu vườn lóng lánh ánh trăng. Đêm mười sáu vườn cây tràn ngập ánh sáng dịu dàng, từng đợt gió lay động cành lá làm ánh sáng nhảy múa oằn oại trong bóng cây đen xẫm. Cúc thầm nghĩ, trăng hôm nay phải tròn và đẹp lắm. Từ vị trí này Cúc chỉ có thể ngắm được khu vườn bên ngoài, cô không thể nhìn thấy trăng được. Đã từ lâu rồi, đã từ rất lâu, Cúc không còn được ra ngoài vườn nhìn trăng như thuở nào bình yên.
Nhìn ánh sáng tràn ngập ngoài vườn, Cúc thấy nôn nao lạ thường, hình như Cúc thấy mình nhỏ bé và đang bị cái ánh sáng kỳ dị, quyến rũ đó tràn ngập. Toàn thân Cúc rung động, cô ngước mắt lên cao để nhìn được ánh trăng, nhưng dù ngước lên đến thế nào, đỉnh cao tận cùng của vết gỗ nứt cũng chỉ chạm vào mái tôn, nơi đó Cúc nhìn thấy ngọn đèn chai leo lét. Mắt Cúc chạm phải ngọn đèn, sự đam mê như ngã xuống. Cô nhớ ngay được lệnh của lính đồn “đêm đến phải treo đèn trước nhà, cấm không được ai đi lại”. Lệnh đó từ hồi nào Cúc không hề hay biết, nhưng việc treo đèn chai, ngồi yên trong nhà nó đã là một thói quen của Cúc, của mọi người ở vùng này. Cũng từ lâu lắm, cứ tối đến sau khi treo đèn, đóng cửa kỹ lưỡng là Cúc chui vô hầm ngủ với bà Năm, Cúc đã quên ánh trăng, không hề biết tới sự quyến rũ tuyệt vời của vườn cây một đêm trăng sáng. Chiều nay khi được bà Hai đưa cho lá thư của Phổ gửi về, Cúc mừng đến run rẩy, “thế là chú Phổ đã lên tới Phước Long bình yên”. Từ hôm Phổ đi Cúc bỗng băn khoăn cho Phổ lạ lùng, buổi chiều tựa cửa nhìn ra vườn, bóng tối dâng lên buồn muốn khóc. Lúc chiều Cúc xem thư, một cái Phổ gửi cho bà Năm, một cái Phổ gửi cho anh Huỳnh, nhìn giòng chữ vững vàng của Phổ thốt nhiên Cúc tin rằng “chú Phổ vẫn được khỏe”. Cô cầm hai lá thư chạy thẳng vào nhà, đến bên bà Năm reo mừng :
- Có thư chú Phổ.
Cúc run rẩy xé bao thư rồi đọc lớn cho bà Năm nghe. Trong thư Phổ nói đã lên tới Phước Long bình yên, lo lắng về sức khỏe của mẹ và nhiều lần dặn dò Cúc săn sóc, lo liệu việc nhà. Thư gửi anh Huỳnh thì Phổ vắn tắt vừa an ủi Huỳnh vừa nhắc Huỳnh suy tính kỹ để đối phó với cảnh khó xử hiện tại. Đọc xong thư, bà năm khóc làm cô sụt sịt khóc theo.
Cúc có cảm giác cứ để cho nước mắt trào ra thì dễ chịu hơn nín nhịn nhiều. Bà Năm nói Cúc cất giữ thư Phổ để tìm dịp về Phú Hội trao Huỳnh. Suốt buổi tối, không lúc nào Cúc không nhớ tới Phổ, dọn dẹp xong Cúc vào hầm nằm ngủ, nhưng trằn trọc không thể nhắm mắt được. Cúc nghĩ sẵn cách viết thư, cách gửi thư cho Phổ. Cô tưởng tượng ra cả vùng Phước Long rừng rú và dáng Phổ lênh đênh in dài trên nền cây xanh thẫm đó. Những ý nghĩ vui buồn quấn quít lấy nhau, phức tạp, đổ dồn trong óc làm Cúc bối rối, cuối cùng Cúc đành phải vùng dậy ra ngồi tựa bên cánh cửa. Cô thầm ao ước trời sáng ngay bây giờ, cô có thể mở cửa ra chợ mua giấy bút viết thư cho Phổ. Cúc thầm trách buổi chiều đã quên khuấy điều này. Bồng bềnh với ý nghĩ hỗn tạp, Cúc quay qua và đụng ánh sáng tuyệt vời ngoài vườn. Từ đó, cô đã mê mải ngắm nhìn ánh trăng qua vết nứt nơi cánh cửa. Cúc nhìn rõ những lá soài dài thượt, lóng lánh ánh trăng chao đi trong gió, Cúc không ngờ có những đêm ngoài vườn đẹp đến múc độ này. Cô thấy thèm khát và muốn được uống ánh sáng xanh biếc long lanh đó.
Vườn cây trái ngập ánh trăng đưa Cúc về với tuổi thơ khi còn ở Phú Hội. Cúc thấy mình nhỏ bé, nhớ tới khuôn mặt từng người trong gia đình, ba, má, các em. Ý tưởng lướt nhanh trong quá khứ thơ ấu và đưa Cúc lớn dần. Cảm giác đau đớn cùng độ khi được tin gia đình chết trọn vì đại bác, lại một lần nữa hành hạ Cúc. Nỗi đau đớn cùng độ tưởng như chết hẳn trong lòng, lại cuồn cuộn dâng lên làm nước mắt chảy ra dàn dụa. Cơn đau đớn ấy bao giờ cũng làm Cúc bơ vơ, lạc lỏng và cuối cùng thì Cúc chỉ còn thấy có một hình ảnh nương tựa duy nhất trên đời, đó là chú Phổ. Bao giờ thì hình ảnh Phổ cũng hiện ra trong trí óc như dỗ dành và Cúc thấy đỡ đau đớn, cô quạnh. Cúc nghe rõ tiếng Phổ âm thầm “cuộc đời nào cũng khổ sở hết, ráng nương nhau mà sống”. Cúc không thể nhớ Phổ đã nói với Cúc trong trường hợp nào, nhưng đã thuộc lòng câu nói đó và thấy được an ủi.
Ngoài sân một con mèo nhỏ dón dén lại gần mái nước, con mèo thè lưõi liếm trên nắp mái còn đọng nước mưa, phản chiếu ánh trăng lóng lánh. Nghĩ tới Phổ, bỗng nhiên Cúc thấy ngượng ngùng, Cúc nhớ rõ giấc mơ hôm trước, Phổ đứng nói chuyện với Cúc sau nhà rồi hôn lên má, hơi thở của Phổ làm Cúc run lên, khi môi Phổ đụng vào da thịt, Cúc thấy da thịt mình nó nổ bừng, lạnh toát, tan ra và bốc hơi như sương khói. Mỗi lần nhớ tới, Cúc có cảm giác phạm tội, cô cố gắng xua đuổi giấc mơ kỳ dị đó đi, nhưng Cúc càng đàn áp, trí óc càng thắc mắc, không hiểu tại sao mình đã nằm mơ như vậy. Giấc mơ làm cho Cúc ngượng ngập, bẽn lẽn với chính mình, cô đã từng chống cưỡng lại ý nghĩ lạ lùng đổ đến bằng cách nắm chặt lấy tóc mai giựt mạnh và thầm thì “không, không thể như vậy được, chú Phổ là chú Phổ, cháu là cháu của chú…” dù Cúc cố gắng chống cưỡng những ý nghĩ vô tình thế nào thì Cúc cũng buồn bã đến bải hoải khi nghĩ rằng Phổ vẫn chỉ coi mình như một cô em. Cúc không hề thấy một dấu hiệu gì chứng tỏ Phổ có cảm tình đặc biệt với mình và cô thấy tủi thân. Cúc càng phân vân hơn, khi thấy rằng mình vừa muốn chống cự, muốn xua đuổi ý nghĩ yêu Phổ, vừa muốn chuyện đó xảy đến. Mỗi lần bối rối, Cúc phải túm lấy tóc mai giựt mạnh đau đến chảy nước mắt.
Cúc ngồi bên khe cửa với các ý nghĩ lẻ loi cho đến khi mệt quá gục xuống thiếp ngủ.
Giấc ngủ chập chờn làm Cúc mệt rồi rũ rượi, tới gần sáng cô mới tỉnh dậy và không ngờ cả đêm đã nằm vật bên cánh cửa này.
Cúc cố gắng đứng dậy mở cửa ra sân, trời đục, sương xuống mù mịt, cây cối trong vườn ướt đẫm. Không khí mát mẻ làm Cúc tỉnh táo lại dần. Cúc tính đi mua giấy viết thư cho Phổ, nhưng cô nghĩ nên đợi bà Năm thức dậy tính chuyện về Phú Hội, gặp chú Huỳnh trước đã. Bà Năm lúc này đã khỏe và có thể tự lo lấy mọi việc, không còn phải trông cả vào Cúc và vì thế Cúc rảnh rang hơn và có thể ở lại Phú Hội một ngày mà không lo lắng sốt ruột.
Cúc ngồi ngoài hè cho đến lúc bà Năm thức dậy kêu vô và sau khi tính toán đủ chuyện Cúc mới lên đường về Phú Hội.
Toán người về thăm nhà phải băng vườn vì đường lộ còn đầy mô lính đồn chưa phá kịp. Đi trên lộ phần ngại đạp nhằm mìn, phần lo đôi bên đụng độ, bị lọt giữa vòng lửa đạn cũng kẹt. Cúc nhập bọn với năm người đàn bà lối xóm vượt ngang các vườn trầu, vườn hồ tiêu trồng xen kẽ cây ăn trái, bóng mát dịu dàng, chim chóc ríu rít trên cành. Cúc thầm ước ao những ngày bình yên trở lại. Đi khỏi Bến Cam, toán người vượt qua một con lạch nhỏ, mùa mưa nước đầy, mặt nước dềnh lênh ngập cả khu vườn quanh đó. Chị Hải vừa xắn quần lội nước vừa nói :
- Cái mửng này, chắc Cống Lò Rèn lại bị mấy ông giật sập…
Một ngưòi khác góp chuyện :
- Nghe nói họ giật bốn bữa rồi.
Người đàn bà chép miệng rồi tiếp :
- Nước không thoát được tràn lên, vườn cây trái nghẹn nước rồi chết hết.
Toán người bì bõm lội qua mấy thửa vườn nghẹn nước. Cúc nhìn những cây trầu thối gốc, lá úa rũ rượi cô bỗng mủi lòng. Một người đàn bà đạp nhằm miểng chén lằn nhằn :
- Tôi không biết tại sao mấy cha ưng phá nhau hoài, bên đắp, bên phá tối ngày, chỉ dân là mệt !
Tiếng suýt miệng kéo dài tiếp theo giọng nói nhỏ nhẹ :
- Vô tới đây rồi bà nội, giữ mồm giữ miệng một chút.
Vượt khỏi khu vườn bị ngập nước thì tới ranh ấp Phú Hội, toán người đang rảo bước đột nhiên nghe tiếng quát :
- Đứng lại !
Cả đám người hốt hoảng đứng khựng. Cúc bối rối nói nhỏ :
- Chết rồi…
Một người đàn ông lạ mặt tay lăm le khẩu súng từ một bụi cây bước ra, người đàn ông tiến lại gần đưa mắt soi mói nhìn từng người trong đám. Cúc liếc nhìn và đụng nhằm ánh mắt sắc xảo của y khiến cô lung túng cúi mặt. Người đàn ông quay lại phía sau ra lệnh :
- Chú hiệp, ra coi giấy mấy người này cho tôi.
Y vừa nói vừa lùi lại gần gốc cây lớn cầm súng thủ thế, một người thanh niên khác nhảy ra, hắn tiến tới và xét giấy từng người. Mấy người đàn bà vừa trình giấy vừa kể lể vì sợ bom đạn phải bỏ nhà chạy ra Phước Thiền ở đỡ. Người thanh niên vai đeo súng dưới thắt lưng lủng lẳng hai trái lựu đạn, lầm lỳ xem giấy từng người, khi hắn hỏi giấy Cúc, Cúc lúng túng móc túi làm rớt cả đống giấy tờ trên mặt đất. Cúi vội cúi người nhặt lên rồi kiếm tấm thẻ kiểm tra đưa cho người thanh niên. Người thanh niên trừng mắt ngó Cúc giọng nói lạnh lùng :
- Đưa tất cả coi.
Cúc líu ríu đưa xấp giấy cho y, cô thấy lo lắng vì trong đó có cả bức thư của Phổ gửi cho Huỳnh. Người thanh niên lật từng mảnh giấy xem xét kỹ lưỡng, khi y lật tới bức thư của Phổ, Cúc thấy y cau mắt rồi đột nhiên ngó Cúc :
- Người nhà cô đi lính cho Ngụy ?
Cúc đáp vội :
- Dạ… Chú tui…
Ngưòi thanh niên chặn ngang :
- Chú cô đi lính ở đâu ?
- Trên Phước Long.
- Cô vô đây làm gì ?
Cúc cuống quit :
- Dạ… Dạ nhà tôi ở Phú Hội, tui về thăm nhà.
Người thanh niên xốc lại khẩu súng, y lớn giọng :
- Thưa, cô này có chú là lính Ngụy.
Người đàn ông từ gốc cây bước lại cầm lấy bức thư của Phổ trong tay gã thanh niên, rồi cau mặt :
- Giữ cô này lại.
Cúc thảng thốt ngó một ngưòi đàn bà, ông đã sẵng giọng :
- Mấy chị này muốn vô thì đi lẹ đi.
Những người đàn bà líu ríu rảo bước bỏ lại mình Cúc. Cúc hoảng hốt nài nỉ :
- Xin các ông…
Người đàn ông chặn ngang :
- Cô theo tôi.
Hắn đưa Cúc vào một căn nhà tranh gần đó, ở nơi này có cả đám người lạ mặt, Cúc đoán là bộ đội ở xa về.
Cúc được dẫn tới trước một gã đàn ông râu ria lởm chởm đang ngồi trước hiên nhà. Người đàn ông dẫn Cúc lên tiếng :
- Thưa đồng chí Đại Đội Trưởng, cô này có người nhà đi lính Ngụy.
Ngưòi Đại Đội Trưởng ngó Cúc rồi gật gù :
- Người nhà là lính Ngụy, vô đây làm gì…?
Giọng Cúc run rẩy :
- Dạ, chú Hai tui làm việc trong này.
Người Đại Đội Trưởng đứng dậy cầm lấy bức thư của Phổ trong tay gã đàn ông vừa xem hỏi :
- Thư này gửi cho anh Hai, anh Hai của cô tên gì ?
- Dạ… chú Hai tui tên Võ Văn Huỳnh.
Người Đại Đội Trưởng cau mặt tỏ vẻ suy nghĩ rồi hỏi tiếp :
- Thư này của tên Phổ gửi cho anh hắn ?
- Dạ, của chú tôi gửi cho anh ruột.
Người Đại Đội Trưởng rút lá thư đọc, tay Cúc níu lấy cây cột mà cô vẫn thấy run, cô thầm nghĩ trong thư chú Phổ chỉ hỏi thăm qua loa chú Hai, có điều bậy nhất là ngoài phong bì ghi rõ địa chỉ nhà binh của Phổ.
Người Đại Đội Trưởng xem xong lá thư, hắn quay qua :
- Kêu giúp tôi đồng chí Xã đội.
Y ngồi xuống hiên nhà, nhìn Cúc rồi nói :
- Thôi được, cô ngồi chờ đó.
Cúc dón dén ngồi xuống chân cột, cô thấy lo ngại đến bồn chồn, chuyện sơ sót nhỏ nhặt này không khéo lại liên lụy tới chú Hai thì khổ. Cúc ngồi được một lúc thì anh bộ đội dẫn người đội trưởng du kích tới. Người Đại Đội Trưởng đứng dậy nói :
- Đồng chí Xã đội coi xem cô này làm gì, có người nhà đi lính Ngụy.
Anh Xã đội bước đến trước mặt Cúc, cô thoáng thấy quen quen và không nhớ đã gặp hắn ở đâu. Anh Xã đội chưa kịp hỏi Cúc đã bị người Đại Đội Trưởng gọi giật lại :
- Đồng chí cầm luôn cái thư này, điều tra giúp.
Anh Xã đội đưa tay nhận lá thư hỏi Cúc :
- Người nhà cô là ai ?
- Dạ, chú Huỳnh.
- Huỳnh nào ?
- Võ Văn Huỳnh.
Người Xã đội chăm chăm nhìn Cúc, y nhắc lại :
- Võ Văn Huỳnh… sao kỳ vậy nè.
Y đổi giọng gay gắt :
- Cô nói thiệt.
- Dạ, chú tui mà.
Người Xã đội du kích nhăn mặt. Cúc nhìn rõ những vết nhăn xếp trên vừng trán sần sùi. Y có vẻ lúng túng rồi quay qua người Đại Đội Trưởng giọng nhẹ nhàng :
- Thưa đồng chí, cô này khai là người nhà của đồng chí Huỳnh ủy viên kinh tài Phú Hội, có lẽ phải dẫn cô ta vô tuốt xóm Hố, vì bây giờ đồng chí Huỳnh hoạt động trong đó.
Người Đại Đội Trưởng nhìn Cúc rồi nói :
- Thôi được, vụ này tôi giao cho đồng chí, nhớ phải điều tra kỹ, đồng chí cũng ra lệnh cho du kích xã chặn hết những người ở ngoài vô trong này lại, cho đến khi có lệnh mới, để họ ra lộ hết.
Người Xã đội du kích nhận lệnh rồi quay lại nói với Cúc :
- Cô đi theo tôi.
Cúc được dẫn ra khỏi khu vườn cây rậm rồi lên lộ. Từ đó theo đường lộ Cúc được đưa thẳng vào xóm Hố. Suốt đoạn đường người Xã đội du kích không hề hỏi Cúc điều gì. Hai bên đuờng Cúc thấy loáng thoáng bóng dáng những người bộ đội trong các vườn cây. Tới xóm Hố, Cúc được dẫn vào một ngôi nhà gỗ, vừa đến thềm, Cúc đã thấy Huỳnh đang ngồi với hai người lạ mặt quanh một bàn tròn kê giữa căn nhà. Cúc mừng rỡ gọi lớn cầu cứu :
- Chú hai… Chú Hai.
Huỳnh giựt mình nhìn ra, anh tỏ vẻ bối rối khi thấy Cúc, người Xã đội nhanh nhẹn bước vào nhà lên tiếng :
- Đồng chí Huỳnh, cô kia có phải ngưòi nhà đồng chí không ?
Huỳnh lúng túng :
- A… Con Cúc… Cháu nuôi tôi…
Mấy người cùng bước ra ngoài cửa đến gần Cúc. Cô đúng im ngó Huỳnh. Người Xã dội du kích tiếp lời :
- Cô này bị các đồng chí bộ đội giữ lại có bức thư của một tên lính Ngụy gửi cho đồng chí.
Huỳnh cau mặt, đến gần Cúc giọng gắt gỏng :
- Thư nào, ai vậy ?
Ngưòi Xã đội du kích chìa lá thư củ Phổ cho Huỳnh :
- Thư đây… đồng chí có biết tên này không ?
Huỳnh chăm chú nhìn lá thư rồi đột ngột quay lại hỏi Cúc giọng tức giận :
- Cúc… thằng Phổ đi lính hả… nó đi hồi nào…?
Cúc biết rằng Huỳnh cố đánh lạc sự soi mói của những người lạ mặt, cô vội đáp :
- Dạ, chú Phổ bị tụi nó hốt giữa đường rồi tống lên Phước Long ít bữa nay…
Huỳnh vẫn cau có :
- Sao vụ này tôi không biết…?
Cúc ấp úng :
- Khi không bị bắt đi, làm sao biết được, chú Phổ gửi thư về cho bà, cháu mới hay…
Một người lạ mặt đứng lầm lì gần cửa chặn ngay :
- Thôi, vụ này để giải quyết sau.
Hắn gật gù rồi tiếp :
- Vụ này kẹt cho đồng chí Huỳnh lắm đấy !
Cúc thấy rõ Huỳnh lúng túng đến tội nghiệp, người lạ mặt vẫn tiếp tục giọng nói khàn khàn :
- Vào họp tiếp đi, đồng chí Xã đội để vụ này tôi giải quyết… Cô em ngồi đỡ ngoài này chờ chúng tôi một lúc.
Mấy người trở lại ghế, anh Xã đội trưởng bỏ ra đường. Cúc lo lắng ngồi xuống thềm nhà. Buổi họp bên trong lúc thầm thì, lúc lớn tiếng. Cúc nghe tiếng được tiếng không, nhưng cô cũng có thể hiểu qua đưọc câu chuyện bàn quanh việc thâu thuế, việc giựt mìn sập Cống Lò Rèn. Giọng người lạ gay gắt đổ trách nhiệm cho Huỳnh về quyết định giựt mìn Cống, khiến một ngưòi du kích bị lính đồn bắn bị thương. Giọng nói khàn khàn gắt gỏng lọt qua tai Cúc :
- Tôi muốn hỏi rõ đồng chí Huỳnh sao không chịu đào phứt mấy đoạn đường phía trên mà cứ phải giựt Cống Lò Rèn mới được ?
Huỳnh giải thích :
- Sở dĩ tôi cho anh em ra giựt cống ở ngoài cho tiện, phá trong này vừa tốn nhân công, không đạt được kết qủa, đào đường bọn nó vẫn có thể chạy xe được.
Vẫn giọng khàn khàn, giọng nói làm Cúc nhức nhối trong óc:
- Theo tôi biết thì lý do đồng chí Huỳnh nêu ra không có đủ các yếu tố thực tế để bào chữa cho sự lầm lẫn của đồng chí được...
Tiếng Huỳnh lấn át :
- Thưa đồng chí Bí thư…
Giọng khàn khàn cắt ngang :
- Đồng chí để tôi nói dứt đã, theo sự điều tra về vụ này tôi được biết sở dĩ đồng chí quyết định giật sập Cống Lò Rèn là vì hai lý do, thứ nhất đồng chí ngại điều động nhân công trong xã để đào bứt hai trăm thước đường phía trong, thứ hai khi đồng chí được đề cử tạm thời thay thế đồng chí xã đội mắc đi công tác, đồng chí đã xử dụng du kích mạo hiểm ra tận ngoài cống đặt mìn vì đồng chí muốn mấy mẫu vườn của tên Hớn nghẹn nước, nhằm trả thù vụ tranh đất trước đây !
- Không, tôi không hề có các ý nghĩ đó.
Giọng người Bí thư chậm rãi :
- Đồng chí Châu cho biết ý kiến.
- Dạ… thưa, theo tôi biết là vụ này có nhiều yếu tố đặc biệt. Đồng chí Huỳnh từ trước vốn có thái độ lừng chừng, không dám điều động cũng như ít tích cực thâu thuế của nhân dân đúng mức, hơn nữa, đồng chí Huỳnh hay lợi dụng công việc chung để giải quyết các quyền lợi cá nhân. Theo tôi biết thì chuyện tranh chấp giữa đồng chí Huỳnh và tên phản động Hớn có từ bảy năm trước, bởi thế bây giờ đồng chí Huỳnh mới không dám bỏ đây chạy ra Phước Thiền, tên Hớn hiện làm cảnh sát ngoài đó và nó đe nếu gặp đồng chí Huỳnh sẽ bắn bỏ.
Người Bí thư cướp lời :
- Bởi thế việc hoạt động của đồng chí Huỳnh cho Mặt Trận, cho đảng vẫn là sự miễn cưỡng…
Huỳnh chặn ngang :
- Xin đồng chí Bí thư hiểu rõ là tôi tích cực hoạt động…
- Đồng chí tích cực để gia đình chạy ra Phước Thiền, em đồng chí đi lính cho Ngụy ?
- Tôi phải cho con Cúc đưa má tôi ra ngoài đó vì má tôi suyễn kinh niên, chạy vào Hang Nai sợ phải di chuyển bất tử thì kẹt, còn thằng Phổ nó trốn lính, đi học về bị tụi nó bắt ngang làm sao cản được.
Cuộc bàn cãi đột nhiên im lặng. Cúc càng lo lắng cho Huỳnh, cho gia đình hơn.
Cúi nhìn những con kiến đang tha trứng nối đuôi nhau thành hàng dài trên cột gỗ. Giọng nói khàn khàn lại đập vào tai Cúc :
- Thôi đưọc, tôi yêu cầu đồng chí tích cực đẩy mạnh các công tác hơn nữa, đồng chí cũng nên đem bà cụ vô trong này và liên lạc kêu tên Phổ về với Mặt Trận…
Cúc nghe rõ tiếng xô ghế và thấy mấy ngưòi bước ra khỏi cửa, cô khép nép đứng dậy. Hai ngưòi lạ bước nhanh khỏi khoảng sân lát gạch ra lộ, Huỳnh quay lại vừa trông thấy Cúc đã lớn tiếng :
- Mày loạng quạng thế nào mà để họ bắt đuợc thư ?
Cúc đứng yên nước mắt dàn dụa, Huỳnh nhìn sững Cúc một lát, đột nhiên anh thở dài :
- Chuyện lỡ hết trơn… tao đã dặn kỹ là dấu kín chuyện thằng Phổ, khi không…
Cúc ấp úng :
- Cháu, cháu…
Huỳnh nhăn nhó xoè hai tay :
- Kẹt hết… thôi được, bây giờ mày tạm về Phú Hội, ở nhà đợi đó, tao lo mấy công tác xong, lo giấy tờ để mày ra Phước Thiền rước má vô, họ bắt buộc như thế… còn chuyện thằng Phổ nữa…
Huỳnh thở dài hỏi Cúc :
- Má hết suyễn chưa ?
Cúc sụt sịt :
- Dạ, hết rồi chú.
Huỳnh nhìn Cúc, giọng nói an ủi :
- Biết làm sao hơn được, thôi ráng vô trong ở với thím và mấy em vậy.
Cúc vội hỏi :
- Thím và mấy em vẫn ở Hang Nai.
Huỳnh chán nản :
- Ờ, vẫn lẩn quẩn trong đó. Ra ngoài này đâu được, bom đạn càn quét dài dài… mày cũng liệu giữ gìn sức khỏe, trông hốc hác lỡ bệnh thì khổ…
Cúc vịn vào cây cột hỏi lại :
- Bây giờ chú phải đi đâu ?
- Bị giao công tác đủ thứ… thôi về gấp Phú Hội đi, tao phải chạy qua Phú Mỹ gấp.
Không để Cúc kịp nói, Huỳnh đã quay người đi ra. Còn một mình trong căn nhà xa lạ, thốt nhiên Cúc không cầm được nước mắt, cô gục đầu vào cánh tay khóc nức nở.
Chương 3 / Chiến Trường Tồi Tệ - Ngô Đình Vận
3
X e chạy gập ghềnh giữa hai hàng cây cao vút, đường thật xấu, những cái ổ gà lớn với gạch đá lởm chởm, chiếc xe lam chạy dằn nghiêng ngửa như người say rượu. Phổ cố gắng bám lấy thành xe để tránh những cái sóc dữ dằn. Mấy người hành khách luôn miệng than phiền và la oai oái. Người tài xế già với mái tóc muối tiêu lởm chởm buột miệng :
- Đ.M, đào hoài…
Mấy chị đàn bà góp chuyện :
- Hồi này mấy ổng lộng dữ.
- Ngày nào cũng có đắp mô đào đưòng hết trơn, lính đồn sửa đâu có thấu.
Một chị đàn bà tỏ vẻ thành thạo :
- Lộng quá thì lại có hành quân lớn, êm được vài tuần đâu lại vào đó hết.
Những câu chuyện vụn vặt làm mọi người quên được đoạn đường và gần gũi nhau hơn, hành khách như chia sẻ cho nhau những dằn vặt, những cái sóc nẩy người với người tài xế già, với chiếc xe hằn học cố nuốt từng khúc đường tồi tệ. Mỗi lần xe rồ ga để chồm qua một mô đất, Phổ thấy hai chân tê dại hẳn đi, anh cố dùng sức mạnh của hai tay nâng người dậy và rút khẽ chân phải đang kẹt cứng trong một mớ chân hành khách, sự cục cựa cái chân của Phổ làm cô gái ngồi cạnh phải đổi thế ngồi, cô gái vừa xoay người vừa trao cho Phổ một nụ cười dễ dãi đến vô tội. Từ đó, mái tóc lòa xòa của cô gái bay ngược chiều gió chờn vờn trên da mặt khô cứng của Phổ, anh có cảm giác như một con vật nào đó đang bò trên má, trên cổ mình, cảm giác này làm Phổ nhớ tới Thúy An. Chiều qua Phổ đã dẫn An đi chơi cũng nhờ có cơn gió vô tình đã khiến mái tóc Thúy An bung rối đùa giỡn trên khuôn mặt Phổ. Cái nhột nhạt của những sợi tóc mảnh mai ấy để đủ cho Phổ có được một kỷ niệm tuyệt vời như sự ngơi nghỉ bình yên, như được nằm soài trên một bãi cỏ non xanh sau những ngày lội bộ trường kỳ trong các cánh rừng gai góc miền biên giới.
Chiếc xe chạy qua một đồn Nghĩa quân và từ đó xe bon bon chạy trên mặt đường nhựa phẳng và vượt qua cây cầu sắt lót gỗ.
Phổ nhổm người về phía trước, qua vai người tài xế anh đã thấy dãy phố thấp, mái lợp ngói cong kiểu cổ, bên hông chợ Phước Thiền. Hình ảnh quen thuộc này làm Phổ xúc động, anh tưởng chừng như mới hôm qua, hôm kia, tháng trước theo mẹ ra chợ sắm quần áo tết. Phổ đã từng đứng sững bên cột chợ đợi mẹ mua đồ và thẫn thờ nhìn những đám rêu từng ụ trên mái ngói, màu rêu vừa đen vừa xanh, ý nghĩ mát mẻ, trơn tuột làm anh thích thú, tuổi thơ ấu thật bé bỏng, thật êm đềm lướt qua như một đợt mây che bớt ánh sáng chói lọi mặt trời.
Chiếc xe thắng mạnh, Phổ ngã dúi vào vai cô gái nhưng cô gái chỉ cười, mấy người hành khách lao xao. Có tiếng nói cong cớn trách ông tài xế :
- Về tới bến rồi còn làm dữ nữa… tía !
Người tài xế xoay hẳn người lại nhe răng để lộ chiếc răng vàng lấp lánh ở khóe môi thâm xịt. Xe de vào bến đậu phía cuối chợ, hành khách xuống xe ồn ào. Phổ nán lại cuối cùng vừa trả tiền xe cho người tài xế và hỏi thăm :
- Từ đây vào Phú Hội có xe không bác ?
Người tài xế trố mắt nhìn Phổ tỏ vẻ ngạc nhiên :
- Trời đất, xe chạy tới đây là cùng đường đó chú.
Phổ gợi chuyện :
- Hồi này dữ lắm hả bác ?
- Mìn hoài, không xe nào dám chạy hết ! Chạy vô xóm Trâu là có chuyện rồi, súng nổ dài dài, lớp mìn, lớp mô lu bù, ở trong đó ngày nào cũng đụng hết , dân chúng bị thương chết đều đều.
- Tuốt trong Phú Hội êm không bác ?
Người tài xế ngó sửng Phổ :
- Êm gì, vùng của mấy cha còn dữ thần hơn nữa. Vô trong đó sống sao nổi, đại bác, bom, đạn tối ngày đâu ai dám ở !
Người tài xế đẩy chiếc xe vào sát lề đường hỏi lại :
- Chú người vùng này ?
- Dạ, gia đình tôi ở Phú Hội.
- Trỏng bây giờ đâu còn ai, chạy hết trơn, lớp ra đây, lớp chạy trốn lên Long Thành, người nào theo mấy cha thì rút vào trong Hang Nai lận…
Người tài xế bỏ lửng câu nói quay ra rước khách đi Long Thành, Phổ ngập ngừng vừa vuốt lại mái tóc xõa trên trán vừa ngó qua khu chợ, anh cố gắng tìm một người quen nhưng không hề thấy ai cả, Phổ đành vào một quán Tàu đối diện kêu cà phê uống.
Phổ ngồi ngay cái bàn thiếc ngoài cùng vừa uống nước vừa để ý sang bên chợ tìm người quen thuộc . Từ phía bên bàn trong, mấy người Nghĩa quân súng đạn lỉnh kỉnh ngồi nhậu la lối ồn ào. Câu chuyện xoay quanh các chiến tích cá nhân, những vụ phục kích đụng độ chết hụt được kể lại với các chi tiết nhỏ nhặt. Một anh Nghĩa quân mặt thẹo vừa chửu thề vừa phanh ngực áo trật hẳn vai trái la lớn với bạn :
- Cái thẹo này là ghẻ ruồi sao mày ?
Tiếng cười rần rộ. Phổ liếc nhìn cái thẹo phẳng lì bóng nhẩy, anh với tay uống một ngụm cà phê. Ngay lúc đó, Phổ chợt nhận ra một người quen đang lúi húi mua bông vạn thọ ở bên kia chợ. Phổ đứng dậy trả tiền rồi lướt nhanh qua đường sang chỗ bán hoa. Anh cất tiếng gọi :
- Thím Tư.
Người đàn bà giật mình buông rớt bó vạn thọ, bà ta ngẩng mặt ngó Phổ rồi reo lên :
- Trời ! Phổ hả, làm tui hết hồn.
Phổ cuống quýt :
- Thím Tư, ở trỏng ra hả… Má tôi còn ở Phú Hội không ?
Người đàn bà nhíu mày :
- Chạy ra ngoài hết trơn… Bom đạn quá chừng ở trỏng không nổi !
- Má tôi bây giờ ở đâu ?
Người đàn bà đưa tay bóp trán :
- Dì Năm cũng chạy ra… ở nhờ đâu đó… Tui có thấy dì và con Cúc ở ngoài này…
Bà Tư ngừng nói lấy tay chỉ về phía đầu chợ :
- Chú thử hỏi bác phó rèn coi… Tôi thấy con Cúc ra vô nơi đó thường lắm.
Phổ mừng rỡ chào người đàn bà rồi hấp tấp đi lại đầu chợ.
Xưởng lò rèn được đặt trong mái hiên của một căn nhà gỗ, phía trước một con bò được cột vào hai đóng gỗ đang được ông già thay móng. Ông già mặt sần sùi, râu tóc lởm chởm ngồi trên cái ghế thấp, hai bàn tay hí hoáy bắt chân trước của con bò đặt lên một miếng da lớn trải trên lòng, Ông già lật ngửa đế chân bò và lấy mũi dao nhọn cậy móng, ông ta đẩy mạnh cán dao, bàn tay thô kệch nổi lên những gân chằng chịt, chiếc móng sắt văng mạnh trên nền xi măng, con bò lồng lộn giữa hai đóng gỗ kềm cứng. Ông già bình tĩnh đặt chiếc móng mới vừa khít vào đế chân bò rồi lấy đinh đóng lại, ông già cắm cúi làm việc không hề biết Phổ bước tới. Đóng xong chiếc móng , ông già thả chân bò xuống, con bò ngoan ngoãn đứng im trong đóng gỗ, ở mép nó còn sùi ra đống bọt trông như một đám bọt xà bông.
Ông già lom khom đứng dậy, tay với chiếc ghế kéo qua phía trái, lúc đó Phổ vội bước lại lên tiếng :
- Thưa bác…
Ông già ngẩng mặt lên, Phổ nhìn rõ đôi mắt đục ngầu ẩn sâu trong khuôn mặt đen đủi, những vết nhăn chằng chịt làm thành từng rãnh chứa mồ hôi. Ông già hất hàm râu tua tủa tỏ ý hỏi. Phổ đến bên đóng gỗ và nói :
- Thưa bác, cho cháu hỏi thăm gia đình bà Năm ở Phú Hội tản cư ra đây ở đâu ?
Ông già vẫn dương cặp mắt trân trối nhìn, hai tay phủi trên miếng da đeo lòng thòng trước bụng, ông ta hỏi :
- Chú hỏi có việc gì ?
Thấy ông già có vẻ ngần ngại, Phổ vội nói :
- Cháu là con bà Năm, bác làm ơn chỉ dùm chỗ ở của má cháu.
Mặt ông già dịu hẳn lại, ông bước tới vui mừng nắm tay Phổ kéo vào bên trong :
- Con dì Năm hả, vào trong này… vào trong này.
Phổ hấp tấp bước theo ông già, anh vấp phải ngưỡng cửa muốn té, ông già kéo mạnh tay Phổ và nói :
- Vào đây, đứng loạng quạng ngoài đó phiền lắm !
Thái độ của ông già khiến Phổ lo ngại. Ông ta kéo Phổ vào nhà, ấn ngồi xuống bộ ván khuất sau cánh cửa nói khẽ :
- Dì năm dặn qua. hễ có ai tìm thì dè chừng, lúc này cả hai bên đều làm khó cho gia đình em hết.
Phổ càng băn khoăn, anh không biết chuyện gì đã xẩy ra, giọng Phổ lo lắng :
- Má cháu hiện giờ ở đâu, bác ?
- À… ở trong bà Hai phía sau đây thôi, để tôi kêu con Út dắt em qua ngay.
Ông già vừa gãi cằm vừa lớn tiếng gọi, một đứa bé gái gầy gò lấp ló sau vách gỗ. Ông già vẫy vào dặn :
- Mày đưa anh qua nhà bà Hai… anh con dì Năm đó.
Con bé dương mắt thao láo nhìn, Phổ đứng dậy nắm lấy tay đứa nhỏ dịu dàng :
- Em đưa anh qua…
Phổ ngoái lại nói với ông già :
- Buổi chiều con qua hầu chuyện bác.
Ông già ậm ừ trong miệng. Đứa bé dẫn Phổ đi lối cửa sau của những thửa vườn cây trái đến một căn nhà gạch, mái ngói trúng đạn sập hẳn một góc người ta đã dùng mấy tấm tôn che đỡ.
Ánh nắng phản chiếu trên mái tôn làm Phổ chói mắt, anh hỏi đứa bé :
- Nhà trúng đạn hồi nào vậy em ?
Đứa bé trả lời miễn cưỡng :
- Lâu rồi !
Hình như con bé có thói quen ngần ngại với người lạ, khi tới gần căn nhà nó nói:
- Nhà bà Hai đó.
Chưa dứt lời, con nhỏ đã quay ngoắt người chạy tung tăng trong vườn. Phổ bước tới, Anh nhìn ngay thấy Cúc ngồi nơi cửa của căn nhà gỗ phía sau, Cúc đang ngồi dỡn với một con mèo nhỏ. Phổ gọi lớn :
- Cúc.
Cúc giựt mình quay ra, reo lên :
- Chú, Chú…
Cô tất tả đứng dậy bước vội ra ngoài rồi đứng sửng lại ngó. Phổ thoáng nhận trong ánh mắt của Cúc sự ái ngại. Cô cắn chặt lấy môi, Phổ vột hỏi :
- Má đâu.
Giọng Cúc run rẩy :
- Trông chú vừa gầy vừa đen, lạ hẳn đi. Bà ở trong nhà.
Cúc đẩy cửa vào nhường lối cho Phổ, anh vừa bước vào nhà đã thấy má nằm co ro trên võng, bà cụ đang ngủ, tiếng thở khò khè phát ra từng đoạn, biết ngay là mẹ đang bị cơn bịnh kinh niên hành hạ, Phổ quay lại phía Cúc giọng lo lắng :
- Má bịnh từ bao giờ ?
Cúc ngập ngừng :
- Bà bịnh cả tuần lễ rồi…
Phổ nhìn mẹ, anh thấy đau đớn và trắc ẩn đến nghẹn ngào. Anh nói khẽ với Cúc :
- Để yên cho má ngủ, cô ra ngoài này cho tôi biết qua chuyện nhà một chút.
Phổ và Cúc bước ra ngồi ở hiên sau, trước mặt là vườn cây rộng. Phổ hỏi Cúc :
- Chạy ra ngoài này lâu chưa ?
- Lối hai tuần rồi chú.
- Ở trong lộn xộn dữ sao ?
- Bom đạn tối ngày không ai ở được.
- Chi hai và mấy đứa nhỏ đi đâu ?
Cúc ngập ngừng… Phổ quay qua thấy nước mắt Cúc vòng quanh sắp khóc, giọng Cúc lo lắng :
- Thiếm và mấy đứa nhỏ theo chú vào tận Hang Nai.
Phổ ngạc nhiên quay qua hỏi dồn :
- Sao không chạy ra ngoài này, vào trong đó làm gì cho mệt.
Cúc đã lấy lại bình tĩnh, giọng nói trầm hẳn :
- Ở nhà nhiều chuyện rắc rối quá chú ơi, chú Hai bị kẹt cứng ở trỏng đâu có dám chạy ra ngoài này nữa.
- Sao kỳ thế ?
Cúc kể lể :
- Mấy người Nghĩa Quân đòi bắn bỏ chú Hai, cháu và bà chạy ra ngoài này vẫn bị họ theo dõi thưòng ngày.
Phổ sốt ruột nhìn Cúc :
- Nghĩa Quân ở đâu lối thế ?
Kẹt lắm chú ơi, chả là tháng trước chú Hai đi họp với mấy ông Mặt Trận ở dưới Bến Cam sao đó, giữa đêm, Nghĩa quân nhào tới vây bắt, hai bên bắn nhau khiến một nghười Nghĩa quân chết, một người bị thương, chú Hai chạy thoát nhưng lại đánh rớt giấy tờ. Nghĩa quân lượm được và từ hôm đó ở nhà bị rắc rối hoài…
Phổ nhăn nhó hỏi lại :
- Bộ hồi này mấy cha bắt anh Huỳnh hoạt động dữ lắm sao ?
- Cháu không biết rõ, nhưng thấy chú Hai phải đi họp tối ngày, thiếm hai lo lắm, có lần thiếm nói với cháu “có người cán bộ ở xã bị chết, chú Hai bị mấy ông bắt lo việc thế”. Nghe Cúc nói, Phổ đã hiểu được phần nào những nỗi khó khăn của gia đình gặp phải, anh cũng hiểu ông già lò rèn có vẻ ngần ngại hồi nãy. Anh hỏi Cúc :
- Từ hôm ra đây cô có gặp anh Hai lần nào không ?
- Vài bữa, thấy êm cháu lại về Phú Hội một lần, cháu gặp chú Hai lẩn quẩn ở mấy nhà trong xóm Hố, chú có vẻ lo lắng dữ, người gầy hẳn đi, chú Hai nói thím và mấy đứa nhỏ vẫn khỏe, chú Hai còn dặn cháu rằng hễ chú có về thì nói chú nên lánh mặt để người ngoài ngó thấy kẹt cho chú Hai ở trỏng lắm.
- Cô gặp anh Hai một mình hay còn có ai đi theo không ?
- Mấy lần gặp chú Hai đều có người lạ hết, chú Hai có vẻ bận việc lắm chỉ nói với cháu ít câu rồi bỏ đi ngay.
Phổ thở dài nhìn ra ngoài vườn, nắng thật chói chang. Những cây trầu lá vàng rực quấn quanh mấy thân cau rêu mốc. Anh hỏi Cúc sơ qua về gia cảnh người chủ nhà, tình hình ở Phước Thiền, càng nghe Cúc nói, Phổ càng thấy một trăm chuyện khó khăn đang tới tấp xảy đến cho gia đình anh. Cúc ngó Phổ rồi nói :
- Chú ra rửa mặt cho khỏe đã.
Phổ theo Cúc ra cạnh lu nước đặt dưới một gốc cau. Cúc lấy chậu thau, khăn mặt và múc nước cho Phổ. Phổ vục mặt vào thau nước mưa mát rượi, anh thấy đỡ mệt một phần nào. Rửa mặt xong, Phổ với tay lấy chiếc gáo múc nước mưa trong lu nước uống, giòng nước mát mẻ chạy qua cuống họng đắng chát làm dịu hẳn cơn nóng đang bốc lên hừng hực trong người.
Cúc đứng ở phía sau, lúc này cô mới hỏi về đời sống quân ngũ của Phổ. Anh quay lại nhìn Cúc, Cúc vắt chiếc khăn lên sợi dây phơi, cô bé lớn hẳn lên cùng với những lo âu ảm đạm trên khuôn mặt, bỗng nhiên Phổ thấy ái ngại và thương Cúc.
Có tiếng rên từ trong nhà vọng ra, Cúc chạy vội vào miệng nói :
- Bà dậy rồi đó chú.
Phổ bước nhanh vào bên võng, anh gọi :
- Má… Má…
Bà năm nghe tiếng gọi mở choàng mắt dậy, người mẹ nhận ra đứa con bằng những giọt nước mắt chảy ướt đầm gò má nhăn nheo. Phổ ngồi xuống bên võng, giọng bà Năm đứt đoạn :
- Con về hồi nào…?
- Dạ vừa về.
Câu chuyện giữa hai mẹ con tiếp tục với những tiếng nấc nghẹn ngào. Bà Năm cựa mình trên võng nhìn Cúc rồi nói với Phổ :
- Bây giờ má chỉ còn biết trông cậy vào con nhỏ, hai đứa bây… mỗi đứa một nơi má không còn biết làm sao cho tụi bay nữa.
Phổ cắn môi yên lặng, anh cố gắng nuốt từng tiếng nấc của má. Phổ đau đớn đến tê dại nhưng không thể khóc được, không còn khóc được, qua khung cửa sổ anh thấy một tàu lá chuối khô xơ xác còn treo lủng lẳng dưới thân cây.
Từ đó cho đến buổi chiều, Phổ quanh quẩn trong nhà phụ với Cúc cho má uống thuốc, ăn cháo. Tất cả các công việc đó khiến Phổ càng thấy rõ sự mật thiết của Cúc đối với gia đình. Anh nhận thấy rằng Cúc đảm đang hơn lúc trước rất nhiều.
Sau bữa cơm, Cúc dẫn Phổ lên nhà trên gặp bà Hai, bà Hai tỏ ý vui vẻ khi thấy Phổ được về thăm má, tuy nhiên bà cũng bảo Cúc phải đưa Phổ sang bên nhà ông Liên gia Trưởng khai báo để tránh chuyện phiền phức. Lúc trở về nhà thì trời đã xẩm tối, Cúc hí hoáy lôi ngọn đèn chai ở dưới gầm ván ra thắp lên trên trước hiên nhà, Cúc nói với Phổ :
- Có lệnh trong đồn, đêm đến phải treo đèn trước cửa để lính đồn khỏi bắn nhầm.
Phổ nhìn ngọn đèn chai hộ mạng hắt hiu, đong đưa trong cơn gió và cảm thấy buồn nản lạ thường. Cúc treo đèn xong kêu Phổ vào nhà đóng cửa lại. Cúc lại nhắc thêm một lệnh nữa của đồn lính :
- Đêm đến không ai được ra khỏi nhà.
Cúc bước tới bên võng đưa bà Năm lại phía hầm nổi, Phổ chạy lại đỡ một bên, giọng Cúc thì thào :
- Đêm phải ngủ trong hầm tránh đạn lạc.
Hai người dìu bà Năm tới cạnh hầm nổi đưọc thiết lập ở một góc nhà. Đó là một bộ ván, bên trên trải từng lớp bao đất, chung quanh được đắp thật dày. Chỉ ngỏ lỗ đủ để một người chui lọt.
Phổ đỡ má chui vào hầm, qua ánh đèn dầu Cúc cầm trong tay, Phổ thấy bên trong được trải chiếu, chăn gối đầy đủ như một giường ngủ. Bà Năm chui vô nằm gọn trong hầm quay ra nói với Phổ:
- Đêm nay chịu khó nằm cả trong này cho chắc ăn…
Phổ chưa kịp trả lời thì Cúc đã nói :
- Ở trỏng rộng lắm, nằm ba bốn người cũng được. Ở đây đêm nào cũng nghe súng nổ hết trơn.
Phổ nói :
- Thôi, để tôi nằm ở võng, súng nổ chạy vào cũng kịp.
Bà Năm ậm ừ trong hầm, tiếng Cúc át hẳn :
- Không được đâu chú, nằm ngoài nguy hiểm lắm, mới hôm trước đạn bắn lủng ván lọt tuốt vô nhà.
Cúc cầm cây đèn dọi lại bên vách tìm vết đạn.
Phổ đứng dậy quyết định :
- Thôi được, cô cứ vào ngủ trước đi, tôi tháo chiếc võng đem lại mắc kế hầm có chuyện gì nhào vô kịp chán.
Thấy Phổ cương quyết nằm ngoài, Cúc vội tháo chiếc võng đem lại máng kế hầm nổi. Cúc lo dọn chỗ ngủ cho Phổ xong xuôi mới chịu tắt đèn chui vào hầm ngủ.
Cúc và Phổ thì thào nói chuyện thật khuya, những tiếng súng đì đùng từ xa vọng lại xen kẽ trong cơn suyển khò khè của má Phổ.
Trong đêm hình như Phổ chỉ thiếp đi từng lúc vì mệt, những tiếng súng rời rạc làm anh giật mình thức giấc và anh thấy sợ hãi cái bóng tối dày đặc của vùng Phước Thiền này.
Buổi sáng Phổ dậy thật sớm nhưng vẫn nằm lì trên võng hút thuốc. Cúc căn dặn chờ cho trời sáng hãy mở cửa ra ngoài, Phổ nằm đợi tiếng động của những căn nhà kế cận và anh thấy thời gian chậm chạp vô cùng.
Có tiếng sột soạt trong hầm, hình như Cúc đã thức dậy, Phổ im lặng nhìn mẩu thuốc lập loè, chỉ còn đóm lửa nhỏ nhoi này trong bóng tối bao phủ. Tiếng động trong hầm kéo dài và mạnh một lúc, giọng Cúc ngái ngủ :
- Chú không ngủ được sao, trời còn sớm lắm !
Phổ buột miệng đáp :
- Tôi vừa thức dậy.
- Không nhìn thấy chú hút thuốc, cháu đâu biết chú thức…
Giọng Cúc tỉnh táo hơn :
- Chú tính ở mấy ngày.
- Định về một ngày để biết tin nhà, nhưng má ốm thì phải ở lại cho đến khi hết phép.
Cúc nhoài người ra khỏi miệng hầm. Phổ trông thấy mái tóc bù xù lấp ló :
- Đã lâu bà không bị suyển, có lẽ hồi này bà lo quá nên bệnh, ra ở ngoài này vài bữa, bà tính sai cháu vào rước thím Hai và mấy em ra luôn, nhưng hôm cháu vô được trỏng thì thím Hai đã dắt mấy em chạy vào Hang Nai rồi. Từ ngày đó bà nhớ mấy em hoài, phần lo cho chú Hai, cho chú nữa. Ở ngoài này bà than buồn và cứ muốn về trỏng, nhưng chú Huỳnh dặn cháu cố giữ bà ở ngoài này cho đến khi nào êm đã.
Phổ hỏi lại :
- Sáng nay Cúc tính về trỏng sao ?
- Dạ, bà nói cháu vô gặp chú Hai xem tình hình thế nào ?
Phổ lo lắng :
- Cô coi chừng đó, loạng quạng kẹt ở trỏng thì mệt.
Cúc im lặng một lát rồi nói, giọng nói tin tưởng :
- Cháu ra vô hoài đâu có ăn nhằm gì, khi nào thấy người ta đi được thì mình mới vô chứ đâu có đi ẩu mà sợ.
- Cô nên cẩn thận, lúc này cả nhà chỉ còn trông cậy có mình cô.
Cúc lảng chuyện :
- A, hôm nay cháu phải đi dắt con chó ra cho bằng được, mấy lần bà dặn cháu mang nó ra cho đỡ buồn, nhưng lần nào vô trỏng rồi cũng quên đi mất.
Giọng Phổ trầm xuống:
- Hôm nay vô được, cô nhớ nói với anh Hai cho tôi điều đó, cô nói rõ với anh Hai nếu có thể, thoát được ra đây tôi có thể bảo đảm cho anh Hai được.
- Cháu cũng nghĩ rằng chú Hai đâu có muốn ở trong đó, nhưng hình như mấy người kia ở đây theo dõi chú Hai ghê lắm, chỉ trong nhà mới biết chú đi lính chứ người ngoài cứ tưởng chú còn đi học.
Hai người nói chuyện cho đến lúc mờ sáng, Phổ nhìn rõ đầu tóc Cúc rối bù, hai mắt nàng thâm quầng khiến anh trắc ẩn. Cúc đứng dậy khỏi miệng hầm, cô đi ra cửa vừa đi vừa vuốt lại mái tóc, Phổ nhìn theo, anh thấy Cúc mảnh mai với bước đi lênh đênh lạ thường. Đột nhiên, Phổ thấy lo lắng cho Cúc.
Cúc đã mở cửa, ánh sáng tràn vào, Phổ nhìn rõ ngoài vườn những chiếc lá ướt đẫm sương đêm, mầu xanh êm đềm ngợp mắt, Phổ không thể tưởng tượng được trong cái quanh cảnh dịu dàng này lại có muôn vàn tai biến đang rình rập.
Buổi sáng, Cúc bận bịu với mọi công việc lặt vặt. Phổ đỡ má ra khỏi hầm và đặt nằm trên võng, tiếng má thều thào Phổ tưởng chừng chỉ một cơn gió mạnh giọng nói cũng đứt đoạn. Phổ cố gắng xua đuổi cái ý nghĩ đen tối đi nhưng anh vẫn nghe thấy hơi thở của má khò khè, hình như trong cuống họng của má có gì chặn ngang mà hơi thở phải len lỏi, trườn qua mới thoát được ra ngoài.
Khoảng tám giờ, sau khi sắp xếp công việc chu đáo, Cúc mới vô Phú Hội. Suốt buổi sáng, Phổ quanh quẩn bên má, anh vừa lo lắng cho Cúc, có thể bây giờ Cúc đã về tới Bến Cam, Phổ tưởng chừng như nhìn thấy con đường đất đỏ ngoằn nghèo qua các mảnh vườn, Cúc đi với một nhóm người quen thuộc. Hai bên đường lộ mát rợp bóng cây, những chùm chôm chôm chín đỏ lắt líu trên cành. Từ sáng Phổ không hề nghe thấy súng nổ, nhất định hôm nay mọi sự đều bình yên. Cúc về tận Phú Hội, đẩy cửa vào nhà và gặp anh Huỳnh ngay lối đi trồng bông Hoàng Điệp.
Tất cả mọi sự đều bình yên như khoảng vườn này, cây lá rung rinh trong nắng, không có một trở ngại nào xẩy ra, Phổ cứ nhắc như vậy. Phổ liếc nhìn mẹ nằm trên võng , cái chăn đắp ngang trên người má phẳng lặng, cả người má khuất chìm trong tấm chăn rộng màu xám.
Phổ có cảm tưởng thân thể má mỗi ngày một mỏng dần, sự yếu ớt mỏng manh đến lo âu, đến tội nghiệp. Hình như má đã chợp mắt, Phổ thầm mong má ngủ yên, bởi vì má thức thì chỉ biết khóc, dòng nước mắt chảy dài không nguôi trên những rãnh sâu của khuôn mặt nhăn nheo luống tuổi. Phổ rón rén kéo tấm chăn cao lên khỏi ngực má, rồi bước ra ngồi hút thuốc trước nhà. Qua khoảng sân lát gạch thẻ hẹp, tới vườn trồng cây trái thật rộng, những cây xoài sung sức cành lá vươn dài, những dây trầu lá vàng óng quấn quýt quanh các thân cam cao nghệu, những cây vú sữa to lớn xuề xòa. Cả khu vườn tràn đầy màu sắc trong nắng ấm, những con chim ríu rít bay nhảy. Thốt nhiên, Phổ tiếc nhớ tuổi thơ, mới ngày nào còn được chơi đùa , chạy nhảy qua các vườn cây rộng ở quê nhà.
Gần trưa, Cúc từ Phú Hội ra. Cô khệ nệ cắp một rổ đầy trái cây, một tay dắt con chó vàng bước vào nhà, Phổ vừa nhìn thấy Cúc vội chạy lại đỡ lấy chiếc rổ nặng nề, Cúc lúng túng đến bối rối khi trao rổ trái cây cho Phổ. Mặt đỏ gay vì nắng, mồ hôi đầm đìa nhễ nhại, cô đưa tay khẽ gỡ những sợi tóc dính sát vừng trán. Con chó thè lưỡi thở hồng hộc bên ngưỡng cửa. Phổ bê rổ trái cây đặt gần bộ ván , lúc đó anh mới kịp để ý tới một bó Hoàng Điệp lá xanh mướt đặt sát cạp rổ, những trái sầu riêng sực nức mùi thơm, những chùm chôm chôm chín đỏ, Phổ quay lại đã trông thấy Cúc đứng bên, anh vội hỏi :
- Về nhà có gì lạ không cô ?
Cúc lấy tay áo vuốt mồ hôi trên trán :
- Dạ, cháu gặp chú Hai.
- Anh nói gì không ?
- Dặn chú đừng để người ngoài thấy mặt.
Phổ thở dài, Cúc ngồi xuống bên cạnh rổ trái cây Cúc nhấc bó Hoàng Điệp trao cho Phổ giọng đầm ấm :
- Hoàng Điệp chú trồng đã có bông rồi đấy.
Phổ cầm bó hoa, quàng tay đặt trên ván, anh hỏi dồn Cúc :
- Cô gặp anh Hai lâu không ?
Cúc thở dài ngập ngừng :
- Dạ lâu.
- Anh hai thế nào ?
- Chú hai vẫn khỏe, có điều lo lắng cho bà và chú lắm.
Cúc vừa nói vừa nhìn lại võng, bà Năm vẫn còn ngủ.
- Cô gặp anh Hai ở đâu ?
Cúc thẫn thờ nhấc từng bó chôm chôm đặt xuống nền nhà, giọng nói gượng gạo :
- Trong xóm Hố.
Cúc trả lời cộc lốc, Phổ kịp nhận ra sự hờn dỗi kín đáo của Cúc, Phổ thầm trách mình nóng nẩy quên khuấy chuyện lặn lội vất vả của Cúc. Nhìn Cúc cúi mặt, bàn tay xoải dài trên vỏ trái sầu riêng gai góc, Phổ mỉm cười giọng dịu dàng :
- Đi đường cực lắm hả cô ?
- Thường thôi, chú.
Phổ biết Cúc còn giận dỗi, anh nói khẽ :
- Cúc ra cửa rửa mặt cho khỏe đã, chốc nữa kể cho tôi nghe một lượt tình hình trong đó, tôi muốn biết rõ ràng mọi điều để tính chuyện cho gia đình đỡ kẹt… xin lỗi Cúc, vì nóng biết chuyện anh Hai, nên tôi quên mất Cúc mới về còn mệt.
Giọng nói Cúc âm thầm :
- Ăn nhằm gì chú, tại hỏi dồn quá cháu không biết nói thế nào cho kịp nữa .
Phổ mỉm cười, anh đứng dậy nhìn đóa Hoàng Điệp nằm soài trên mặt ván. Phổ vội cầm bó hoa , rút lấy một bông, anh mê mải nhìn cánh hoa rực rỡ, bông hoa nở tung, tuyệt vời như một cánh bướm bay lên “không đó là một cánh Chim Thiên Đàng”. Thúy An đã nói như thế và cũng chính vì điều đó Phổ đặc biệt yêu thích loài hoa này, anh đã đem giống về trồng ở Phú Hội vào mùa hè năm ngoái. Có điều Phổ ngạc nhiên đến thích thú là cả nhà đều chê loại hoa này, chỉ có Cúc khen đẹp. Phổ quay lại bắt gặp ánh mắt long lanh của Cúc. Phổ vội giơ cao bông Hoàng Điệp lên :
- Cúc có thấy bông này đẹp không ? Như một con bướm vàng vậy, nhưng sách vở thì rắc rối gọi nó là chim Thiên Đàng.
Cúc chợp vui, giọng trong trẻo :
- Nó mảnh mai dễ thương quá.
Phổ cười đùa :
- Hoa mà cứ coi như là người ấy.
Cúc tươi tỉnh, đuôi mắt kéo dài cong vút, Phổ ngạc nhiên, anh không ngờ Cúc có nụ cười lạ lùng như thế, lần đầu tiên suốt từ hồi Cúc về sống với gia đình anh, Phổ mới bắt gặp nụ cười trong sáng đó. Nhưng nụ cười tươi vui đó chỉ chợt lóe lên, vụt cháy như một lằn chớp rồi lại tắt ngấm trên khuôn mặt u buồn của Cúc. Niềm vui của Cúc thật ngắn ngủi khiến Phổ thương hại, anh thấy khó lòng kéo Cúc ra khỏi những mặc cảm, những đau thương đầy ắp của Cúc. Điều mà anh thường nghĩ về Cúc là sự lạc lõng. Cúc cố nương tựa vào cái tình thân thiết của gia đình anh, bỏ quên bớt những cay đắng riêng tư, nhưng cái khó khăn của Cúc mà Phổ nghĩ vẫn là Cúc lỡ được đi học, lỡ biết suy nghĩ và phải cố gắng sống hồn nhiên bên cạnh những chất phát chung quanh. Hoàn cảnh đã đặt Cúc ở vào cái thế khấp khểnh giống cái răng cưa trồi lên, lạc loài quay theo một bánh xe với nhiều răng cưa bình dị : Phổ vẫn thầm cho rằng tới một lúc nào đó hoặc là cái răng cưa lạc loài này phải mài nhẵn để ăn khớp với các răng cưa khác, hoặc bị siết đến văng ra . Dù ở trong trường hợp nào Phổ điều thấy Cúc tội nghiệp hết. Sự suy luận ấy Phổ đã nhận xét qua các sinh hoạt của Cúc lúc còn ở Phú Hội. Cúc không có bạn thân và dường như Cúc bơ vơ, lạnh nhạt với tất cả những người chung quanh. Một điều ngạc nhiên hơn cả là ở Cúc, Phổ thấy có nhiều điểm giống Hằng, giống An, một cái gì tinh nghịch, kiêu kỳ ẩn khuất dưới khuôn mặt buồn thảm.
Thấy Phổ đột nhiên im lặng, Cúc lên tiếng, giọng nói lạnh lung cố hữu :
- Buổi sáng cháu vô trỏng đâu có đi trên lộ.
- Sao thế ?
- Mấy cha đang đắp mô dài dài, đám người vô trỏng đều phải băng vườn hết trơn.
- Băng vườn nguy hiểm lắm !
Cúc thở dài :
- Người ta đi thường mà chú… Người ta vô được thì mình cũng đi được, lần nào vô trong ấy cũng phải nhập bọn với mấy người khác, chứ đâu có đi một mình khơi khơi mà sợ.
Phổ đặt bông hoa trên ván, anh tựa người vào bờ đất hỏi Cúc:
- Cô về tới nhà có gặp ai không ?
Cúc bê mấy trái sầu riêng đặt vào khoảng ván để trống không trải bao đất và nói :
- Cháu về tới nhà vắng hoe, ớn quá phải quay ra kêu chị Hồng đi cùng.
Cúc với tay lấy ấm nước vừa rót vào ly vừa tiếp :
- Nhà cửa bụi phủ đầy, cỏ mọc bừa bãi khắp nơi, cả trong hàng hiên cũng có cỏ mọc. Cháu và chị Hồng ghé vô nhà một chút thấy buồn quá, bèn ra vườn bẻ trái.
Cúc đưa ly nước lên uống rồi tiếp :
- Vườn mùa này nhiều trái, phải chi về hoài được bẻ bán cũng bộn tiền.
Phổ lái câu chuyện :
- Rồi làm sao cô vô được Xóm Hố gặp anh Hai ?
Cúc ngồi xuống bờ đất tiếp tục kể chuyện :
- Cháu và chị Hồng bẻ trái một lát đầy rổ, không biết làm gì nữa, tính ra lộ có gặp ai không, vừa ra tới lộ gặp ngay mấy người quen trong xóm Hố, cháu theo họ vô luôn.
Cúc vừa nói tới đó thì Phổ nghe tiếng gọi yếu ớt của má, anh quay qua võng và thấy con chó đã tìm lại đứng bên võng chiếc đuôi ve vẩy, miệng đánh hơi vào mép võng, giọng bà Năm run run :
- Cúc nó ra hồi nào ?
Cúc đã đứng cạnh võng đáp khẽ :
- Cháu vừa mới ra, có dắt theo con chó.
Bà Năm cố gắng thò bàn tay run rẩy vuốt ve lên đầu con chó và hỏi Cúc :
- Cúc có gặp được chú Hai không ?
- Dạ có.
Phổ xen vào :
- Má thấy đỡ bịnh chưa ?
Bà năm mệt nhọc đáp lại :
- Cũng thấy bớt hơn hồi sáng.
Phổ đẩy con chó lại gần võng hơn :
- Má cứ yên trí, con hỏi Cúc rồi, nó nói anh chị Hai và mấy đứa nhỏ bằng an cả. Má nằn nghỉ đi, để con hỏi rõ Cúc tình hình trong đó rồi bàn với má sau.
Phổ đưa mắt ra hiệu cho Cúc và chỉ ra ngoài hiên. Cúc hiểu ý Phổ, cô nhanh miệng nói :
- Trời đất, mưa quá rồi, để cháu đi nấu cơm mới được.
Cúc nói rồi nhanh nhẹn bước ra. Phổ ngồi nán lại cho mẹ uống nước rồi nói :
- Má có ăn cháo để con nói Cúc lấy lên.
Bà Năm lắc đầu từ chối. Phổ kéo chăn đắp lại ngay ngắn cho má :
- Má nằm nghỉ, để con phụ với Cúc một chút.
Bà Năm tỏ ý bằng lòng. Phổ đứng dậy, anh nhìn thấy tay má vuốt dài trên lưng con chó.
Cúc đang vo gạo nấu cơm ở cửa bếp, Phổ tìm xuống tiếp tục câu chuyện bỏ dở. Anh hỏi Cúc :
- Cô vô tới xóm Hố thấy trong đó ra sao ?
Cúc vừa đổ gạo vào nồi vừa nói :
- Gặp mấy người du kích gác dài dài họ xét giấy tở lôi thôi quá.
Cúc cúi xuống thổi cho bếp lửa cháy lớn rồi tiếp :
- Thấy họ xét hỏi lằng nhằng cháu nói đại là người nhà ở Phú Hội vô thăm chú Hai. Nghe nói tên chú Hai, họ tỏ ra dễ dàng ngay. Một du kích dẫn cháu vô tuốt trong một ngôi nhà ngói và cháu gặp chú Hai ở trỏng.
Phổ dựa lưng vào cửa bếp hỏi Cúc :
- Anh Hai nói gì với cô ?
- Có mặt mấy người lạ, súng ống lu bù cháu đâu có dám nói chuyện gì. Cháu chỉ hỏi thăm thiếm Hai và các em ngồi nói chuyện nhà một lúc lâu, chờ cho mấy người lạ ra cháu mới cho chú Hai biết chú về.
Cúc lấy tay đẩy thêm củi vào lòng bếp :
- Nghe nói chú về phép ngoài này , chú Hai lo lắm. Chú dặn cháu ra nói chú liệu tránh gặp người ngoài và liệu đi lại kín đáo.
Phổ băn khoăn :
- Cô có biết rõ tại sao anh Hai nói thế không ?
- Chú Hai nói rằng nếu họ biết được chú đi lính thì mệt cho chú Hai lắm.
Giọng Cúc lớn hẳn :
- À, chú Hai gửi tiền cho chú… từ nãy đến giờ cháu quên đi mất.
Cúc vừa nói vừa móc túi lấy một gói giấy trao cho Phổ. Phổ vội nói :
- Thôi cô giữ lấy để lo việc nhà, tôi ở trên đó có việc gì phải tiêu đâu.
Cúc lớn tiếng :
- Chú hai nói cháu đưa cho chú, ở nhà thì thiếu gì, chú ở trên đó lương lính đâu có đủ. Hơn nữa mùa này đang mùa trái, cháu về trỏng hoài, nội bẻ trái cây trong vườn bán cũng dư tiền đi chợ, vô bất tử mấy cha đâu biết mà thâu thuế.
Cúc ấn gói giấy vào tay Phổ, khiến Phổ gắt gỏng :
- Tôi nói cô giữ lấy.
Cúc miễn cưỡng giữ lại gói tiền, Phổ dịu giọng hỏi tiếp :
- Theo cô thì anh Hai có kẹt lắm không, cô có nói việc tôi nhắn anh kiếm cách thoát ra đây không ?
- Có, cháu có nói vụ đó, nhưng thấy chú Hai tỏ ý khó chịu, chú nói với cháu rằng “mày về bảo nó lo phận của nó, tao không ngu gì đâu, nó có biết ở đây tao kẹt đủ thứ chuyện hết, vợ con bị bắt buộc đưa cả vào Hang Nai, chứ tao đâu có ngán gì mấy thằng Nghĩa quân ngoài đó”.
Phổ thở dài, Cúc nhìn Phổ giọng nói dịu dàng :
- Chú cũng không nên lo nghĩ quá chỉ thêm khổ thôi, ở đây không phải chỉ có gia đình mình kẹt, ai cũng khổ hết làm sao sống được là may lắm rồi.
Phổ nhìn Cúc cắm cúi nấu cơm :
- Chút nữa có lên nhà gặp má, cô nên nói sơ sơ cho má nghe thôi…
Giọng Cúc âm thầm :
- Cháu đâu dám nói với bà mấy chuyện kẹt của chú Hai, sợ bà lo quá bịnh thêm.
Phổ chép miệng buồn bã :
- Tôi đi, ở nhà chỉ còn biết trông cậy ở cô lo cho má thôi, thú thực với cô, lúc này tôi không còn biết phải lo liệu thế nào cho êm nữa !
- Sao chú cứ nói hoài chuyện đó, cháu chỉ mong chú đi được yên thân thôi, mấy chuyện ở nhà đâu có gì đáng lo ngại hết. Từ trước đến nay xảy ra thường mà, có lo lắm chỉ thêm mệt mà thôi, tới đâu lo tới đó, chuyện gì rồi cũng êm hết. Chú cứ nhăn nhó, lo nghĩ hoài bà thấy được bệnh thêm thì khổ !
Phổ cúi đầu nhìn mấy con kiên bò chênh vênh trên cột gỗ, giọng Cúc nhẹ nhàng :
- Chú biết không, ở nhà bà nhắc chú hoài, ai cũng lo cho chú ở trên đó hết.
Phổ nhìn thẳng vào mắt Cúc dằn giọng :
- Lo là lo ở nhà này, tôi ở trên đó không có gì đáng lo hết cả !
Mắt Cúc chớp mau, cô cắn chặt lấy môi rồi nhìn thẳng Phổ :
- Cháu biết chú cố dấu đủ chuyện cho nhà bớt lo, chú có thể dấu bà được, chứ cháu biết rõ ở trên đó chú cực, lại đụng trận hoài, cháu quen mấy chị vợ lính ở chỗ chú, họ nói trên đó nguy hiểm lắm, họ còn biết rõ đại đội chú mới bị đánh ở Bà Rá nữa. Những chuyện đó cháu đâu có để bà hay được, nhưng chú không cẩn thận lỡ sao thì khổ.
Khói bếp tỏa đầy, Cúc lấy tay dụi mắt lia lịa.
Phổ đứng nói chuyện với Cúc suốt buổi trưa, anh không ngờ Cúc biết rõ mọi chuyện và Cúc đảm đang công việc gia đình đến thế. Vai trò của Cúc trong gia đình anh lúc này không còn phụ thuộc như trước nữa. Cúc chủ động trong mọi công việc, điều này khiến Phổ thầm cảm phục Cúc nhưng cũng không khỏi xót xa, ngượng ngập với chính mình. Phổ thấy hoàn cảnh càng lúc càng tách rời anh khỏi những trách nhiệm mà đáng lý ra anh phải gánh lấy để lo lắng, giải quyết.
Phổ ở lỳ ở Phước Thiền phụ với Cúc săn sóc mẹ cho đến ngày hết phép. Bà năm cũng đã bớt bịnh và có thể đi lại được trong nhà. Đối với mẹ, Phổ cố giữ kín hoàn cảnh của mình để mẹ bớt lo, nhiều lần bà Năm vừa khóc vừa nói với Phổ “má đã già rồi, trước khi nhắm mắt chỉ mong được nhìn thấy con cái đông đủ”. Nhắc tới Huỳnh, bà Năm càng thương hơn “con cái nó chạy tuốt vô Hang Nai không biết ăn ở thế nào?” Phổ và Cúc phải thay nhau an ủi bà Năm, nhưng bà Năm vẫn không thể quên được sự chia cách của Huỳnh và Phổ. Bà nói “tao chỉ biết tao là mẹ chúng bay, mỗi đứa ở một phe rồi đây tao biết bỏ đứa nào nghe đứa nào”.
Nếu Phổ đã dấu kín hoàn cảnh của mình, của anh Huỳnh với mẹ, thì ngược lại anh không hề dấu Cúc điều gì. Những tính toán, những lo âu đều được cả hai chia sẻ cho nhau. Phổ thấy không còn gì ngăn cách anh và Cúc nữa, những khó khăn đã đưa Cúc lại vị trí một cô em gái ngoan ngoãn, đảm đang. nhiều lúc nhìn Cúc, phổ thấy lo lắng không biết đời sống sẽ đưa đẩy Cúc tới đâu. Trước những săn sóc của Phổ, Cúc đã cảm động đến bối rối.
Hôm Phổ từ biệt gia đình để trở lại đơn vị, cả mẹ anh và Cúc đều khóc. Phổ phải cố gắng lắm mới bước ra khỏi nhà.
Buổi sáng đầy mây mù, Cúc đưa Phổ ra tận bến xe, khi xe chạy Phổ thấy rõ Cúc ôm mặt khóc. Ngồi trên xe, Phổ tưởng như mình hỏng khỏi mặt ghế, anh thầm ao ước phải chi anh có thể khóc được như mẹ, như Cúc, có lẽ bớt khổ tâm hơn, băn khoăn với các ý nghĩ rối loạn xe về tới Long Thành mà Phổ không hay. Người tài xế phải nhắc Phổ xuống xe, Phổ như người mất hồn, anh luống cuống bước xuống đất, anh thọc tay vào túi trả tiền xe, tay Phổ chợt đụng vào gói giấy. Phổ vội rút ra và anh nhận ngay được gói tiền của anh Huỳnh, Cúc đã lén nhét vào túi quần anh hồi nào anh không biết.
Về tới Saigon, Phổ chỉ kịp ghé Đằng lấy đồ để đi Bình Dương gấp, Phổ tính ít nhất cũng phải nằm lại Bình Dương một ngày chờ trực thăng đi Phước Long, như thế có thể bị trễ phép vài ngày. Thấy Phổ vội vã, Đằng nhắc nhở :
- Mày không ghé qua An sao, mấy ngày nay gặp tao, em hỏi thăm mày. Khiếp, tao cũng đoán mày có chuyện kẹt dưới đó nên ở lì luôn, nhưng em thì tỏ ra nóng ruột dữ.
Câu nói của Đằng làm Phổ bối rối. Thực ra, Phổ có ý định là cứ lên thẳng Phước Long rồi viết thư cho An là ổn nhất. Phổ có thói quen tránh né mọi người khi gặp chuyện khó xử, anh nghĩ rằng những chuyện rắc rối riêng tư thì mình nên cam chịu và tự giải quyết lấy, Phổ vốn không muốn làm lan rộng các lo lắng vô ích cho người khác và vì thế Phổ thấy ngại gặp An lúc này. Có thể việc bỏ đi bất tử sẽ làm An buồn, nhưng Phổ vẫn tin rằng tình yêu thắm thiết sẽ làm tan biến được những đám mây mù mỏng manh. Phổ cắn môi suy nghĩ rồi nói với Đằng.
- Hay tao viết vài chữ, mày đưa cho An giúp tao.
Đằng nhìn Phổ nghiêm giọng :
- Gấp thế cơ à ?
Phổ đáp cụt ngủn :
- Ừ.
Phổ lấy mảnh giấy để trên bàn viết thư cho An, trao cho Đằng rồi nói :
- Nhờ mày nói với An giúp, tao phải đi bất tử nên không ghé An được, chuyện nhà binh vốn thế, chẳng có gì đáng ngại hết, tao sẽ viết thư cho An sau.
Cũng chính vì muốn tránh mọi phiền phức, Phổ đã ân hận suốt khoảng đường từ Saigon tới Bình Dương. Những khó khăn gặp phải trong dịp về phép lúc này đều lắng cả xuống để Phổ thấy rằng việc tránh né gặp An trước khi đi là bậy. Phổ cố gắng phân tích chính mình nhưng anh vẫn không thể hiểu được cái lý do chính, ngại gặp An hay là thực tình không muốn An phải lo lắng cho mình hay là lúc này anh mang nhiều mặc cảm đến độ hèn nhát.
Phổ phải đợi trực thăng ở Bình Dương một ngày rưỡi, khi anh tới Phước Long thì trời đã về chiều, sương chờn vờn trên những cánh rừng cao su bát ngát, nhìn cái quang cảnh quen thuộc này Phổ thấy chán nản cùng cực. Phổ lại bắt đầu bước trên một đoạn đường dài lầy lội.
Phổ càng khó chịu khi nhìn xuống đế giầy, đất đỏ lầy nhầy dính chặt khiến bước đi càng nặng nề, mệt mỏi. Phổ cố tránh một vũng nước mưa trên mặt đuờng, anh tiến sát vào bờ kẽm gai dựa chân lên gạt bớt đất bùn, nhưng Phổ cũng chợt nghĩ rằng, khoảng đường từ đây vào tới tiền cứ của Trung doàn còn xa, đường còn lầy lội. Thốt nhiên Phổ thở dài, anh tưởng như mình khó có thể rút chân lên khỏi mặt đất bầy nhầy, heo hút tại đây.
Nằm đợi tại tiền cứ Trung đoàn một đêm, Phổ căng võng ngay cạnh nhà kho để ngủ, một người lính thấy Phổ hí hoáy cột võng, anh bước lại cười với Phổ :
- Nằm đây sao được, ông nội ?
Phổ tưởng anh lính đuổi mình, anh đứng sững buông chiếc dây võng, người lính nói tiếp :
- Anh vào nằm đỡ trong hầm tôi, nằm ngoài này nhỡ đêm bị pháo kích thì mệt lắm !
Lòng tốt của người lính lạ xảy ra thật bất ngờ làm cho Phổ lúng túng, suốt cả buổi tối Phổ đã loay hoay tìm một chỗ ngủ, khi vừa định mắc võng thì lại được kêu vào hầm ngủ Phổ bỗng thấy được sự an ủi, anh tưởng như nghe tiếng nói thì thầm trong lòng. “Biết đâu mình không còn gặp nhiều bất ngờ, biết đâu những bất ngờ vụn vặt nhất lại không làm đảo lộn cả hoàn cảnh hiện tại, dù sao thì một thay đổi cũng thú vị hơn”.
Sáng hôm sau, Phổ được quăng tới một căn cứ cách Phước Long lối mười cây số. Bùn lầy khắp căn cứ, đất đỏ bị mưa nhão ra như cháo lỏng sền sệt. Những vũng nước mưa còn đọng vàng khè, vết bánh xe hằn đọng chằng chịt. Bùn lỏng ngập quá đế giầy, từng bước đi nặng nhọc cơ hồ như phải rút chân lên khỏi lớp keo dính. Giầy trận càng trở nên nặng nề, mỗi bước kéo theo cả một đám bùn dẻo quánh. Phổ mới theo đoàn công voa từ Phước Long lên đây buổi trưa, cảm giác đầu tiên buồn nản vì chỗ ở mới, rừng cao su vây quanh mịt mù, trời mùa mưa, mây xà xuống thấp, mặt đất lầy lội bẩn thỉu nhưng đây là nơi dừng quân của Tiểu đoàn sau những tháng hành quân ròng rã. Những chiến công của mỗi cá nhân, của cả tập thể pha lẫn máu, nước mắt, mồ hôi để đánh đổi lấy nơi dừng quân này.
Tiểu đoàn đã tạm yên ở đây vài tháng, nhiệm vụ nhẹ nhàng trấn giữ khu vực phía Bắc tỉnh Phước Long. Từ căn cứ này, tiểu đoàn chỉ phải tung các đại đội, các trung đội đi thám kích trong khu vực. Từ ngày nhập ngũ Phổ mới biết được sự nghỉ ngơi, có một chỗ ở nhiều ngày khác hẳn sự di động thường trực của những ngày tháng lội bộ vừa qua.
Nhìn khắp một vòng căn cứ, Phổ nhận được đây là một đồn lớn của một đơn vị địa phương quân. Ở giữa căn cứ là ngôi nhà lớn kiểu cổ của đồn điền cao su, xếp đầy những bao cát phòng thủ để biến thành một pháo đài chính. Tiểu đoàn dùng ngay tòa nhà đó làm bộ chỉ huy. Chung quanh trại, những dãy giao thông hào từng lớp bao đất. Phổ nhìn đợt mây mù xà xuống khắp cánh đồng bên ngoài. Bỗng nhiên, Phổ thấy an ủi ý nghĩ sẽ có một chỗ ở nhất định trong một thời gian nào đó dù sao cũng dễ chịu hơn sự di động mỗi ngày.
Đại đội Phổ may mắn được nằm lại căn cứ giữ an ninh cho tiểu đoàn, hai đại đội khác phải xa nơi này cả cây số.
Đứng hút thuốc một mình trên sân trại cho đến khi trời mưa lắc rắc Phổ mới chạy về công sự của mình. Đại đội đi nằm đường vẫn chưa trở về, buổi trưa xuống xe Phổ được Thượng sĩ Ngữ, Thường Vụ chỉ cho khu vực của đại đội, anh phải mò vào một dãy công sự tìm ra chỗ ở của mình. Phổ nhận được chỗ ở này nhờ các vật dụng của Tám, của Huân treo đầy trong căn hầm hẹp.
Mưa lớn hột, Phổ nằm dài trên võng qua lỗ chân mai, rừng cây bên ngoài, quanh cảnh thật âm u, dưới các đỉnh cây cao su xanh thẫm khó có thể phân biệt được những thân cây chìm khuất trong màu đen đó. Nằm nghỉ trong hầm, Phổ nghe rõ tiếng léo xéo của đàn bà, con nít, những người vợ con lính hễ cứ thấy chồng đóng tạm ở một nơi nào, lại lếch thếch theo sinh sống.
Buổi chiều, Thượng sĩ Ngữ đổ quạu gắt gỏng với đám vợ con lính khi họ nhào ra tranh nhau đồ của chuyến công voa từ Phước Long lên. Phổ còn nhớ rõ giọng nạt nộ của Thượng sĩ Ngữ, ông ta ví đám vợ con lính như bèo tấm, chồng ở đâu được vài ngày là sáp lại. Phổ nhận ra sự gắt gỏng của thượng sĩ Ngữ chẳng ăn nhằm gì, gắt gỏng để gắt gỏng mà thôi vì chính vợ con ông ta cũng có mặt trong đám người chen lấn bên hông mấy chiếc xe GMC chở thực phẩm. Gắt là bản tính của Thượng sĩ Ngữ, có lần thằng Huân nói bô bô lên rằng “đéo biết gắt gỏng thì đéo làm Thường Vụ được”. Ông Ngữ nghe được chửu Huân :
- Đ.M, mày diễu ông hả ?
Sự kiện đó thốt nhiên biến thành một trò đùa vui vẻ trong sinh hoạt đại đội. Phổ nằm dài trên võng với những ý nghĩ hỗn tạp, những lo lăng về gia đình, về Thúy An, điều đáng buồn nhất là bất cứ chuyện gì xảy ra chính anh cũng không thể giải quyết được.
Các khó khăn sinh ra rồi nằm ì đó, mối bất an thường xuyên cho Phổ. Phổ thầm thì “ngày mai sẽ làm gì, không thể tính được gì cả, như Huân, như Tám”. Mọi người khác đều gắng sống ngoài ước mơ nhỏ bé nhất của họ. Có lần Tám ước ao được ăn một cái kẹo, nhưng giữa cánh rừng biên giới làm sao có thể tìm một cái kẹo bây giờ. Phổ nằm một lúc thì đại đội mở đường đã về tới, nhìn những đồng đội mặc poncho ướt át tập họp giữa sân, Phổ chợt liên tưởng đến những con gà mái mắc mưa đang xù lông rũ nước. Phổ đứng ngay cửa hầm đợi Huân và Tám, nước mưa rơi xuống cây đà gỗ bắn vào mặt lạnh lẽo. Đại đội tập họp kiểm điểm quân số rồi tản hàng mau lẹ. Đám người lướt thướt toả ra phía các hầm, Phổ nghe rõ tiếng Tám la lớn :
- Đ.M, lên rồi hả…?
Tám dứt câu đã lao người đến cửa hầm, Phổ lùi vào trong, Tám lách người vào, vừa cởi poncho vừa hỏi :
- Đi đã không mày, mấy bữa nay chúng nó doọc kỹ quá, đại đội còn sáu, bảy chục con, bị phạt mở đường dài dài…
Tám mắc áo mưa lên cây cột, để súng vào giá gỗ, tháo dây đạn, ngồi xuống sạp cởi giầy. Phổ hỏi :
- Huân đâu mày ?
- Doọc từ chiều qua lận… Đ.M, trễ phép coi chừng thác đó.
- Đại Đội Trưởng hách lắm hả ?
- Đ.M, hồi này cha quạu dữ... Về Saigon đánh đấm kỹ chứ ?
Phổ thở dài :
- Đủ chuyện kẹt… đi đéo đâu được !
Cởi giầy xong, Tám sắp xếp chỗ nằm nhường Phổ một góc sạp. Mưa đã tạnh, qua mái hầm Phổ thấy một đứa gái sắn quần quá bắp đùi đang trút nước mưa hứng được từ poncho vào mấy chiếc vỏ đạn đại bác, ở đầu dãy công sự. Cô gái lạ dẫm chân trên bờ công sự lầy lội bùn đỏ lấm dưới chân làm lộ bắp đùi trắng muốt. Mầu trắng của da thịt đàn bà ngợp mắt, một sự cuốn hút kỳ lạ, nôn nao. Anh đứng ép người vào vách hầm và hỏi Tám :
- Ai vậy ?
Tám nhổm người nhìn ra ngoài rồi nói :
- Đ.M, về dưới chưa đã sao, mới lên đã lạng quạng, thằng Bòn chém thấy mẹ !
Phổ cự nự :
- Thấy lạ thì hỏi, lạng quạng đéo gì !
Tám cười lớn :
- Con Chanh, con gái lớn Hạ sĩ Bé đấy ông nội, thằng Bòn dê cả tuần nay rồi.
Hai người nói chuyện bông lông một lúc bỗng có tiếng kiểng đánh lớn. Tám chồm dậy giục Phổ :
- Lấy gà mêm đi đớp mày.
Phổ xỏ giày, quơ lấy gà mêm của Huân treo trên cột theo Tám xuống nhà bếp đại đội. Hai đứa lãnh phần ăn chung rồi bê cả xuống quán của Hạ sĩ Bé. Quán ăn dưới một hầm lớn đầu dãy công sự, dưới ánh đèn bão vàng vọt, Phổ nhìn rõ đám người quây quần trên những chiếc bàn đóng bằng thùng đạn. Phổ vừa cúi người lọt vào quán.
- Ê, lên hồi nào vậy ?
Phổ nhận rõ được giọng Chuẩn úy Thành, Trung đội Trưởng, Phổ lắp bắp trả lời :
- Hồi trưa, Chuẩn úy !
Tiếng Trung sĩ Bảo lè nhè :
- Trễ phép đéo trình diện hả ?
Phổ ấp úng :
- Dạ… dạ…
Bảo lớn tiếng :
- Lại đây mày !
Phổ đặt chiếc gà mêm đựng cơm xuống bàn hất hàm với Tám, rồi dụt dè bước lại bàn Chuẩn úy Thành. Phổ chờ đợi sự nạt nộ của Trung sĩ Bảo, anh đứng thủ thế. Bảo cầm ly la ve lên rồi hô lớn :
- Uống một cái nghe mày !... Phạt đó !
Mấy người trong quán cười rộ, Chuẩn úy Thành hỏi :
- Mấy ngày ?
Phổ đặt ly xuống bàn quẹt bọt la ve trên mép :
- Dạ… hai.
Thành nói :
- Đ.M, đeo gái cho kỹ vào bị phạt ráng mà chịu nghe.
Giọng Phổ trầm xuống :
- Má tôi bị bệnh.
Mấy người ngồi quanh cười hồng hộc. Bảo la lớn :
- Mẹ ốm, vợ đau, con bịnh…thằng đéo nào về trễ chả vậy, cảm động thấy mẹ !
Chuẩn úy Thành nhìn Phổ :
- Mày đi trễ đếch ăn nhậu gì tới tao hết, ông Kính lơ thì lơ luôn, nếu nổi sùng thì ráng chịu, mấy bữa nay bọn nó lặn đều đều, tiểu đoàn nạo ông ấy dữ.
Thành với tay lấy chai la ve, rót ồng ộc vào chiếc ly Phổ vừa đặt xuống, giọng ồm ồm :
- Có gan đi, có gan chịu, ăn nhằm gì, phải không Phổ ?
Phổ cười gượng :
- Dạ… xin phép lại…
Thành chặn ngang :
- Ừ, lại ăn cơm cho vững bụng, chốc nữa có phải phạt còn đủ sức gồng.
Phổ dơ tay chào rồi quay lại bàn.
Tám đã kêu thêm đồ ăn dọn ra bàn, nó vừa cầm vừa nhìn Phổ :
- Xong rồi chứ ?
Phổ nháy mắt cười trừ. Tám gắp thức ăn đưa lên miệng vừa nhai vừa nói :
- Mẹ kiếp, ở Trung đội thì cái đéo gì cũng xong, đụng cha Đại đội Trưởng cà chớn này mệt hơn ông Hồng nhiều, ông Hồng ngon lắm, hễ bị Tiểu đoàn Trưởng la là ông quạt lại ngay, cha Kính này nhát hơn thỏ đế, đại đội cực lây vì chả.
Phổ đặt bát xuống bàn :
- Cha nào cũng thế, ông Hồng được tiếng chịu chơi, đụng đâu là Tiểu đoàn tống đi, cha này nhát nhưng ông Tiểu đoàn Trưởng chịu, vì thế đại đội mới nằm được ở đây.
Tám cáu kỉnh :
- Nằm ở đây ăn giải gì ? Chỉ tổ mấy cha sai vặt !
Tám đẩy đĩa đồ ăn lại phía Phổ :
- Ăn mày, đi đường mệt dữ sao ?
- Khi không làm biếng ăn quá.
- Còn nhớ em hả ?
Phổ cười đưa mắt về phía quầy tính kêu nước uống, Phổ thấy thấp thoáng sau tủ thuốc lá, một mái tóc dài anh gọi lớn :
- Cho chai coca đi.
Tám quay lại nhìn cô gái :
- Đ.M, coi bộ mày chịu dữ.
Phổ cãi lại :
- Thấy lạ thì phải coi cho kỹ.
Tám gật gù :
- Giữa cái bãi sình này thì nhất nó rồi, coi cũng mát mắt. Cha Bé bưng con gái lên để lột lính đó mày, thằng Bòn coi bộ mết dữ.
- Dính chưa ?
Tám nhăn trán có vẻ suy nghĩ :
- Hình như con bé cũng khoái nó.
Cô gái mang chai coca tới đặt mạnh xuống bàn rồi ngúng nguẩy quay đi. Thốt nhiên, Phổ thấy vui lây vì cái trò đỏng đảnh của con bé. Phổ cười hỏi Tám :
- Bộ đắt giá lắm sao ?
- Đ.M, đã bảo cha Bé dùng nó để dụ lính mà, cả chục thằng ve vãn, nhưng coi chừng có đứa ẵm mẹ nó đi thì hốc hác.
- Coi bộ thằng Bòn cũng ngon chứ mày ?
- Ngon đéo gì, mấy vụ đập lộn, đánh giặc thì nó tới chứ vụ gái… thằng bết nhất.
Phổ gật gù :
- Nó tán đúng sách đó mày, giữa cái đám cứ xâu xâu thằng nào dụt dè là sáng nước nhất.
Phổ chợt cười thầm, anh nghĩ cứ đứng ngoài mà bàn thì đâu vào đó lắm, chính mình đụng chuyện thì lại kẹt tùm lum. Phút giây Phổ nhớ tới Thúy An mà lo ngại. Chiều qua ở Phước Long, Phổ đã viết thư cho An, anh cố biện bạch về sự vội vã của mình, nhưng biết đâu chuyện đó sẽ êm xuôi? Phổ thấy rõ khi đang yêu, người ta dễ bị nhức đầu về mấy vụ lặt vặt, tình ái vừa an ủi, vừa bấp bênh, nhưng tất cả những điều đó lại tạo nên hạnh phúc. Phổ đột nhiên im lặng. Tám hỏi :
- Cũng tính nhào vô sao mày ?
Phổ đáp cụt ngủn :
- Không.
- Về dưới có chạy được cái vụ của mày không ?
Phổ chép miệng :
- Chạy quái gì, đợi ở đây chuyển đơn còn mệt.
Hai người ngồi nói chuyện được một lúc; Bên ngoài trời đã tối, Chuẩn úy Thành lớn tiếng hỏi :
- Mấy giờ rồi bay ?
- Tám giờ thiếu hai mươi.
- Uống đại đi còn tập họp.
Tám càu nhàu :
- Mẹ, về đây tối đéo nào cũng phải tập họp, nghe xếp hét thối bố nó tai.
Phổ xoay xoay ly nước, giọng lo lắng :
- Ông Ngữ điểm danh hay quan lớn ?
- Ông Ngữ còn khá, bữa nào gặp chả thì mệt cả đám.
Tám đứng dậy xếp cà mêm :
- Về mày.
Phổ bước theo Tám chui ra khỏi quán; Đêm tối dịu dàng, gió thật mát, quanh trại ánh đèn hắt ra từ các công sự, một vài nơi soi rõ những vũng nước mưa nhơ nhớp. Tám chui vào hầm cất cà mêm, Phổ đứng lại trên bờ công sự quan sát trong vùng tăm tối, những cánh rừng đen xẫm mấp mô dưới nền trời; Tiếng radio mở hết cỡ, giọng ca èo uột “trùng dương nổi sóng, lênh đênh bọt nước, lắc lư con tàu đi…”. Tiếng hát chưa dứt Phổ đã nghe thấy một hồi tu huýt réo lên. Tiếng tu huýt làm Phổ khó chịu, anh liên tưởng ngay tới hồi còn thụ huấn ở quân trường, tiếng kêu đanh đá này đã hành hạ Phổ đến độ anh căm hờn âm thanh đó.
Từ các công sự những người lính lổm ngổm chui lên như một bầy chuột, có người vừa đi vừa gài nút quần, tiếng nói lao xao trên khoảng sân lầy lội. Nhiều người bước nhằm vũng nước phát ra âm thanh phì phọp; Tiếng la lối chửu thề rộ lên. Trên bờ công sự, mấy người vợ con lính đứng ngồi từng đám. Tám kéo vai Phổ ra giữa sân, Phổ hỏi :
- Mấy mẹ khoái xem tập họp điểm danh lắm sao ?
Tám ngoái cổ nhìn lại :
- Tối đéo nào mà chả thế, thú vui công cộng mà.
Tiếng la hối thúc của Thượng sĩ Ngữ vang lên :
- Chạy lẹ, Đ.M, dỡn hả ?
Giọng Bòn trây trúa :
- Phần nào thôi chứ Thượng sĩ, đụng đâu đá đó bùn văng cùng hết, dơ quần, lấm áo bả giặt sao kịp !
Tiếng cười rầm rộ, Thượng sĩ Ngữ quát lớn :
- Đ.M bọn bay, ổng xuống chết mẹ cả đám !
Các trung đội tập họp dài dài giữa khoảng sân lầy lội. Những trung đội phó kiểm điểm quân số, tiếng than thiếu người trong từng tiểu đội. Từng Trung đội báo cáo quân số với Thượng sĩ Ngữ, ông Ngữ tay cầm đèn pin rọi lên một tấm giấy nhỏ và hí hoáy ghi nhận số quân của mỗi trung đội, vừa ghi ông Ngữ vừa la :
- Sao thiếu qúa cỡ vậy nè… các trung đội phó ghi luôn tên mấy đứa doọc cho tôi.
Màn điểm danh thứ hai xảy ra cẩn thận hơn lần đầu nhiều, từng người vắng mặt được ghi rõ tên trên giấy.
Ông Ngữ lầm bầm :
- Đ.M, phạt kỹ như thế mà bọn nó vẫn đông.
Có tiếng đùa giỡn trong hàng quân :
- Lính chịu chơi mà.
Ông Ngữ quát :
- Đ.M, đứa nào giỡn đó ?
Tiếng nói xì xầm :
- Im cha nó mồm đi, lộn xộn hoài chả bắt đứng đến khuya bây giờ.
Ông Ngữ tổng cộng quân số đại đội, càu nhàu :
- Thiếu mẹ nó hai mươi mốt con.
Tiếng xầm xì trong hàng quân :
- Lội lâu qúa không được đi phép thì phải lặn.
- Ê, Trung úy tới bọn bay.
Phổ liếc mắt về phía hầm đại đội, anh thoáng thấy Trung úy kính bước tới, bóng dáng cao ngòng đen sẫm trong đêm tối. Cả Đại đội im bặt, những người lính tự ý so hàng, nghe rõ đế giầy di chuyển lép nhép dưới mặt đất lầy.
Trung úy Kính bước theo hàng quân, Thượng sĩ Ngữ dõng dạc hô “Nghiêm” trình diện đại đội. Phổ chợt thấy thương hại ông Ngữ, nhiều khi anh thấy ông Ngữ phải làm những thủ tục cứng nhắc trong cái không khí thiếu trang trọng đến tức cười.
Thượng sĩ Ngữ báo cáo quân số, Trung úy Kính chặn ngang giọng gay gắt :
- Tại sao thiếu nhiều như vậy, ông kêu mấy ông Trung đội Trưởng.
Bốn sĩ quan Trung đội trưởng đứng một góc bước lại. Trung úy Kính nạt nộ :
- Các ông làm thế nào mà để bọn nó đi dữ vậy, các ông có biết rằng ông Tiểu đoàn Trưởng vừa quạt như tát vào mặt tôi không ?
Kính quay qua hỏi Ngữ :
- Trung đội nào đi nhiều nhất?
Ánh đèn pin lóe lên trên miếng giấy, giọng Ngữ ngập ngừng:
- Trung đội Ba.
- Anh nói rõ cho tôi biết bao nhiêu đứa vắng mặt?
- Tám người.
- Ghi tên chúng nó chưa?
- Dạ rồi.
Kính hằn học với các Trung đội Trưởng:
- Tôi nói với các ông lần chót, các ông liên đới trách nhiệm, tôi đề nghị nhốt các ông!
Kính bước gần tới hàng quân lớn giọng:
- Tôi báo cho các anh biết, Đại đội bị phạt mở đường nửa tháng, ngoài những công tác thường xuyên, kích đêm giữ an ninh cho tiểu đoàn, tôi nói đàng hoàng các anh không nghe, từ nay bất kể anh nào lặn, tôi sẽ phạt thật nặng. Các anh là người chứ không phải thú nói không biết nghe!
Có tiếng xầm xì trong hàng quân, Kính hằn học quát lớn:
- Đứa nào phản đối bước ra đây… tôi phạt cả đại đội.
Hàng quân im lặng, Phổ nhìn thấy trước mặt những thân hình bất động sừng sửng.
Kính nạt nộ cả Đại đội lối mười lăm phút, Phổ nghe thấy tiếng thì thào từ phía sau :
- Đ.M, la hoài, mấy thằng ở nhà cũng nghe chửi.
Kính chống nạng vào sườn gay gắt :
- Những đứa nào lặn mới về, đi phép trễ bước ra đây coi.
Cả hàng quân vẫn không nhúc nhích, Kính quát lớn :
- Tôi nói bước ra !
Hàng quân vẫn bất động, tiếng nói xì xào :
- Đ.M, đứa nào lặn thì bước ra lẹ đi, để cả đại đội bị hành sao ?
Tiếng Bòn nói nhỏ :
- Đ.M, ra thì ra sợ đéo gì.
Bòn tách khỏi Đại đội bước lên vài bước, lôi theo mấy người khác tách khỏi hàng quân. Phổ im lặng bước theo mấy người phạm lỗi, Kính thét :
- Đứng qua bên này coi.
Bòn dẫn đầu đám người bước về phía trái, họ tự động đứng thành một hàng ngang. Ngữ lên tiếng :
- Tám đứa.
Kính bước sấn lại đám lính phạm lỗi, nắm lấy áo người đứng đầu hỏi lớn :
- Tội gì ?
- Dạ nhảy dù.
Tiếng cười rúc rích trong hàng. Kính nóng giận thoi luôn vào mặt người lính, anh lính la ôi ối, cố gắng tránh né. Phổ thầm hiểu Kính muốn dằn mặt đại đội, anh lo lắng đợi tới phiên mình. Kính bước tới hỏi từng ngưòi, đấm đá túi bụi, Phổ hốt hoảng khi thấy Kính đứng trước mặt. Kính không thèm hỏi nữa, đấm ngay vào mặt Phổ, trái đấm vượt qua lưỡng quyền làm Phổ ngã chúi, hai tay vội soài ra chống trên mặt bùn lệt bệt. Bòn đứng chót hàng. Kính bước tới vừa tung trái đấm Bòn đã nhanh nhẹn lách mình tránh được. Kính đấm hụt loạng choạng muốn té.
Tiếng cười nổi lên phía đại đội. Kính hậm hực hét lên :
- Đứng nghiêm.
Bòn nhúc nhích đôi giầy trên mặt đất. Kính đấm xối xả vào mặt Bòn, làm hắn dội ngược, lảo đảo muốn té.
Kính phủi tay lớn tiếng :
- Cà chớn hả, cho tụi bây chết luôn, qùy xuống đó.
Tiếng xì xào nổi lên trong Đại đội, mấy người phạm lỗi nhúc nhích đôi chân, Kính xốc tới hét lên:
- Qùy xuống.
Mấy ngưòi đứng đầu hàng vội vàng qùy ngay xuống mặt đất lầy lội, Phổ qùy theo, anh thấy rõ đất lún trên đầu gối lành lạnh, một viên cuội nào đó trồi lên, khiến Phổ phải nhích đầu gối. Anh nghe rõ tiếng cười rúc rích trong đám vợ con lính đứng ngồi ở bờ công sự. Có tiếng trẻ con trong trẻo :
- Má… Má… Ba phải qùy… Má.
Tiếng cười rộ, tiếp đó tiếng đứa trẻ khóc thét, Phổ biết chắc đứa nhỏ bị mẹ nó đánh. Có tiếng thì thào bên cạnh :
- Con mày hả Ngàn ?
Trung úy Kính quát :
- Không chịu qùy hả ?
Kính xốc tới phía Bòn, đấm đá túi bụi, Bòn loạng choạng té nhào trên mặt đất. Tiếng cười rộ lên trong đám vợ con lính. Bòn vội vốc một nắm bùn thẳng tay tung đại về phía bờ công sự, tiếng đàn bà trẻ con la chói lói. Trung úy Kính nổi nóng tung giầy đá nhằm vai Bon khiến hắn chới với, ngã chúi xuống mặt đất lầy, nhưng hắn đã đứng ngay dậy, xông tới trước mặt Kính :
- Trung úy ngon giết tôi đi !
Kính lùi lại, gằn giọng :
- Mày tính đánh nhau tay đôi với tao hả ?
Bòn vẫn hậm hực :
- Ông ngon đánh đi, tôi có thích ở đây đâu, tôi xin qua Thám Báo...
Ngữ và mấy Trung đội Trưởng nhào tới can khéo. Chuẩn úy Qúy kéo Bòn nói lớn :
- Vừa thôi chứ Bòn !
Bòn đổ quạu :
- Ổng muốn giết tôi mà.
Kính hậm hực nhưng đã dang ra xa, nói với Ngữ :
- Ông cho Đại đội tản hàng, mấy đứa này cho qùy luôn.
Kính nói vớt vát vài câu rồi bỏ đi. Qúy ấn vai Bòn :
- Đ.M, nóng ẩu, thôi qùy xuống mày.
Bòn hạ giọng :
- Qùy thì qùy ăn nhằm gì !
Ngữ cho Đại đội tản hàng, những người lính nhào tới vây quanh những ngưòi bị phạt, tiếng nói ồn ào.
Giọng Ngữ lè nhè :
- Ê Bòn, mày tính đớp ổng hả ?
Bòn cộc cằn :
- Đớp gì, làm quá chịu đâu được !
Mấy người lính bu lại ồn ào, một lát rồi bỏ đi. Hạ sĩ Bé từ trong hầm chạy trở ra, đến gần Bòn la lối :
- Đ.M mày nhe Bòn, mày ngon liệng bùn tao coi.
Bòn im lặng, tiếng cười hồng hộc nổi dậy, một người đến cản Bé, giọng đùa cợt :
- Thôi mà hạ sĩ, nó trót dại liệng trúng bả, con Chanh; Ông tha cho nó.
Tiếng cười rộ, một giọng chen vô :
- Bòn ơi , chết mẹ mày rồi, liệng trúng mẹ vợ, liệng trúng đào, mất vợ là cái chắc.
Bé vẫn lầm bầm chửu thề, Qúy bước tới can :
- Thôi Hạ sĩ, bỏ qua đi, nó nóng ẩu tính đớp cả ông Kính, chấp nó làm gì.
Bé phân trần :
- Chuẩn úy coi, nó nhè đàn bà, con nít liệng ẩu, dơ hết trơn…
Tiếng cười hinh hích nổi lên sau mỗi câu nói, Phổ vừa nhích đầu gối ê ẩm vừa cười thầm trong bụng, chợt ngó thấy Ngàn, anh bỗng tội nghiệp dùm hắn. Phổ quay sang hỏi khẽ :
- Lặn đi đâu mà bị phạt thế này ?
Giọng Ngàn thản nhiên :
- Đ.M, lên Phước Long mua mấy món đồ lặt vặt cho vợ bán.
- Bả không đi được sao ?
- Mắc thằng nhỏ.
Câu chuyện trên sân từ những hậm hực, tức tối dần dần chuyển qua trai gái, dâm dật. Phổ nhìn thấy ngững đợt mây trắng lạt nhạt trôi nổi trên nền trời tăm tối. Mấy người bị qùy gối hai mươi phút thì Thượng sĩ Ngữ trở ra cho phép đứng dậy. Phổ chống tay đứng lên, tay xoa nhẹ trên hai đầu gối ê ẩm.
Chuẩn úy Qúy lớn giọng :
- Đi nhậu bọn bay.
Qúy nổ tiếng trong đại đội là người phóng khoáng, sống gần binh sĩ nhất. Một người bị phạt reo mừng.
- Bữa nay Chuẩn úy chịu chơi quá ta.
Qúy cười quay lại :
- Chịu chơi đéo gì, tao góp một phần, tụi bây góp một phần.
- Đồng ý.
Mấy người ồ ạt kéo nhau đi, Bòn ngập ngừng đứng lại, Qúy thét :
- Ê Bòn, đi chứ mày, ngại đéo gì, lỡ liệng thì vô xin lỗi.
Mấy người cười rộ, Bòn nhép miệng ấp úng :
- Kỳ quá ông ơi !
Qúy lộn lại nắm tay Bòn lôi đi.
- Kỳ mẹ gì, mày liệng vợ mày không được à ?
Bòn nói lảng :
- Tôi ngại ông Bé.
- Ba vợ mày để tao lo.
Mấy ngưòi kéo nhau vào quán Hạ sĩ Bé. Bòn lưỡng lự chưa kịp chui vào hầm đã bị Qúy kéo ấn vô. Qúy la lớn :
- Cho la ve uống nghe.
Bòn then nét ngồi xuống một ghế thấp, nó mắc cỡ ngang. Hạ sĩ Bé mang mấy ly đá đặt lên bàn, vừa trông thấy Bòn, Bé cự nự :
- Tao tưởng mày đi luôn không vác mặt vô đây nữa…
Qúy chặn ngay :
- Ê, tụi tôi vô đây uống nhe, mấy vụ lộn xộn dẹp hết.
Bé nhìn Qúy :
- Chuẩn úy tính…
- Tính mẹ gì, ai không biết nó nóng hoảng, ông chấp nhứt em út sao ?
Bé quay vào lấy thêm ly và la ve. Mấy người đùa cợt.
- Ê Bòn, xin lỗi ba vợ đi chứ !
Bòn vẫn làm thinh cúi mặt. Phổ liếc về phía quầy hàng và thấy mặt Chanh, phụng phịu đầy vẻ giận dỗi. Bé mang la ve ra, tiếng mở chai lốp bốp, la ve được rót ồng ộc vô ly sủi bọt trắng xóa. Qúy kéo chiếc ghế, níu vai Bé ấn xuống :
- Uống luôn nghe ông ?
Bé có vẻ nể Qúy, lúng túng ngồi xuống, Qúy cầm ly lớn tiếng :
- Cụng ly tụi bay.
Tiếng nói vui vẻ ồn ào. Qúy hối :
- Bòn, cầm ly mày.
Bòn dụt dè đưa tay với lấy ly la ve.
Ngàn la lớn :
- Hạ sĩ cụng ly huề với nó.
- Huề con mẹ gì, tha cho con rể.
Nhiều người cười rộ. Họ ép Bé cụng ly với Bòn, tiếng vỗ tay lốp đốp. Qúy quay vào la lớn :
- Đem gì ra nhậu coi.
Bé lật đật đứng dậy đã bị Qúy ấn xuống :
- Ngồi đây, tối nay uống gục luôn, đứa nào còn tỉnh cứ việc bước qua xác tao.
Một người lên tiếng :
- Tụi tôi còn đi gác.
- Mấy đứa ?
- Hai.
- Cho hai đứa bay tự do.
Bàn nhậu càng lúc càng hào hứng, đám người hết uống la ve đổi qua rượu đế. Chiếc ly nhỏ đầy ắp rượu đế được chuyển xoay vòng. Mọi người ăn nhậu, nói chuyện thoải mái, Bé cũng hết còn giận Bòn, ông ta khen nó :
- Tui nói thật, hồi nãy giận thằng Bòn cành hông, nhưng thấy nó hối cũng tội.
Nhiều người cười nói ồn ào, có người đề nghị :
- Hạ sĩ kêu con Chanh ra gả phứt cho rồi.
Qúy chặn ngay :
- Vừa phải thôi, Đ.M, nhậu với tao đừng có loạng quạng.
Phổ ngồi uống chếch choáng. Anh nhìn quanh lướt qua những khuôn mặt đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, miệng trơn bóng. Phổ thấy mọi người đều dễ mến. Trong hơi men người ta dám nói thẳng với nhau, cá tính bày tỏ. Thốt nhiên mọi bực tức, mọi lo nghĩ trong lòng vơi đi, Phổ thấy thích cái tính liều lĩnh của Bòn, cái nghênh ngang của Qúy, sự khiêm nhượng của Ngàn. Một giây Phổ tưởng mình tan loãng trong cái tình thân hữu đó. Ý nghĩ này cũng gây cho Phổ tự tin và được an ủi.
Hai người lính mắc gác dời khỏi, một người yếu rượu đã gục đầu xuống bàn. Trong ánh mắt chập chờn, Phổ nhìn thấy mái tóc lởm chởm đầy bùn đất đặt cạnh một mớ xương “sý-oắt” bầy nhầy. Có ngưòi đề nghị Hạ sĩ Bé ca vọng cổ, Bé cao hứng loạng choạng đứng lên vỗ tay, lè nhè :
- Ê, im hết… im hết… tui ca nè… ca tặng Chuẩn úy Qúy và mấy anh em…
Tiếng vỗ tay át hẳn giọng nói, Qúy cười hô hố :
- Hạ sĩ Bé ngon mà.
Bé lấy hơi, gân cổ :
- “Chàng là từ hậu phương đồng chua nước mặn hay nơi chốn biên cương gió lộng mây ngàn…”.
Mỗi lần Bé xuống câu, tiếng tán thưởng, tiếng vỗ tay rầm rộ. Một người trong bọn la lớn :
- Không được, không được…ca mà không có đờn là không được.
- Ê Bòn, quên ngón nghề hoài sao.
- Bắt nó về hầm xách cây “ghi-ta” qua gấp.
- Đứng lên mày.
Bòn lao đao đứng dậy chui ra khỏi hầm. Lúc đó Phổ mới kịp hiểu rõ lý do con Chanh thích Bòn.
Bòn xách cây “ghi-ta” cũ tróc sơn trở lại, nó ngồi ngay ngắn trên ghế so giây, những tiếng đàn rời rạc loãng tan trong căn hầm ấm áp. Bòn so giây đàn xong, nó ôm cây “ghi-ta” nơi ngực quay ra hỏi trống không :
- Ca bản gì đây ?
Hạ sĩ Bé cao hứng :
- “Nếu anh là lính chiến”.
Tiếng vỗ tay xen lẫn tiếng nói :
- Được lắm… Được lắm.
Qúy cười lớn :
- Bứng mẹ nó chữ nếu đi, anh là lính chiến, anh là lính chiến đây em ơi !
Mọi người cười rộ. Bòn dạo đàn âm thanh ngọt ngào cuồn cuộn như nước lũ. Phổ ngồi từ phía trái ngắm Bòn qua vị thế nghiêng. Anh thấy Bòn quyến rũ kỳ lạ. Đèn chiếu sáng một phần khuôn mặt, những sợi tóc phất phơ dưới vầng trán, tay lướt trên phím đàn. Điệu bộ của Bòn thật đam mê, hình như nó đặt cả tâm trí vào mười đầu ngón tay, âm thanh rung lên đến tê buốt. Hạ sĩ Bé vô câu, “nếu anh là lính chiến, em sẽ là người em gái hậu phương gửi ra tiền tuyến ngàn vạn cánh thư hồng… Anh chưa trở lại em vẫn là cô gái chưa chồng… Mỗi tuần em viết gửi anh ba mầu giấy hồng, xanh, trắng…”.
Phổ liếc mắt vào phía quầy hàng. Anh thấy Chanh chống tay lên cằm say đắm nghe nhạc, phút giây Phổ nhớ tới Thúy An, anh thầm ao ước cái hạnh phúc hiện tại của Bòn. Qua lỗ hầm của chỗ ăn, từ phía xa những trái hỏa châu rớt xuống, để lại những vệt khói oằn oèo trên nền trời đen tối mênh mông.
X e chạy gập ghềnh giữa hai hàng cây cao vút, đường thật xấu, những cái ổ gà lớn với gạch đá lởm chởm, chiếc xe lam chạy dằn nghiêng ngửa như người say rượu. Phổ cố gắng bám lấy thành xe để tránh những cái sóc dữ dằn. Mấy người hành khách luôn miệng than phiền và la oai oái. Người tài xế già với mái tóc muối tiêu lởm chởm buột miệng :
- Đ.M, đào hoài…
Mấy chị đàn bà góp chuyện :
- Hồi này mấy ổng lộng dữ.
- Ngày nào cũng có đắp mô đào đưòng hết trơn, lính đồn sửa đâu có thấu.
Một chị đàn bà tỏ vẻ thành thạo :
- Lộng quá thì lại có hành quân lớn, êm được vài tuần đâu lại vào đó hết.
Những câu chuyện vụn vặt làm mọi người quên được đoạn đường và gần gũi nhau hơn, hành khách như chia sẻ cho nhau những dằn vặt, những cái sóc nẩy người với người tài xế già, với chiếc xe hằn học cố nuốt từng khúc đường tồi tệ. Mỗi lần xe rồ ga để chồm qua một mô đất, Phổ thấy hai chân tê dại hẳn đi, anh cố dùng sức mạnh của hai tay nâng người dậy và rút khẽ chân phải đang kẹt cứng trong một mớ chân hành khách, sự cục cựa cái chân của Phổ làm cô gái ngồi cạnh phải đổi thế ngồi, cô gái vừa xoay người vừa trao cho Phổ một nụ cười dễ dãi đến vô tội. Từ đó, mái tóc lòa xòa của cô gái bay ngược chiều gió chờn vờn trên da mặt khô cứng của Phổ, anh có cảm giác như một con vật nào đó đang bò trên má, trên cổ mình, cảm giác này làm Phổ nhớ tới Thúy An. Chiều qua Phổ đã dẫn An đi chơi cũng nhờ có cơn gió vô tình đã khiến mái tóc Thúy An bung rối đùa giỡn trên khuôn mặt Phổ. Cái nhột nhạt của những sợi tóc mảnh mai ấy để đủ cho Phổ có được một kỷ niệm tuyệt vời như sự ngơi nghỉ bình yên, như được nằm soài trên một bãi cỏ non xanh sau những ngày lội bộ trường kỳ trong các cánh rừng gai góc miền biên giới.
Chiếc xe chạy qua một đồn Nghĩa quân và từ đó xe bon bon chạy trên mặt đường nhựa phẳng và vượt qua cây cầu sắt lót gỗ.
Phổ nhổm người về phía trước, qua vai người tài xế anh đã thấy dãy phố thấp, mái lợp ngói cong kiểu cổ, bên hông chợ Phước Thiền. Hình ảnh quen thuộc này làm Phổ xúc động, anh tưởng chừng như mới hôm qua, hôm kia, tháng trước theo mẹ ra chợ sắm quần áo tết. Phổ đã từng đứng sững bên cột chợ đợi mẹ mua đồ và thẫn thờ nhìn những đám rêu từng ụ trên mái ngói, màu rêu vừa đen vừa xanh, ý nghĩ mát mẻ, trơn tuột làm anh thích thú, tuổi thơ ấu thật bé bỏng, thật êm đềm lướt qua như một đợt mây che bớt ánh sáng chói lọi mặt trời.
Chiếc xe thắng mạnh, Phổ ngã dúi vào vai cô gái nhưng cô gái chỉ cười, mấy người hành khách lao xao. Có tiếng nói cong cớn trách ông tài xế :
- Về tới bến rồi còn làm dữ nữa… tía !
Người tài xế xoay hẳn người lại nhe răng để lộ chiếc răng vàng lấp lánh ở khóe môi thâm xịt. Xe de vào bến đậu phía cuối chợ, hành khách xuống xe ồn ào. Phổ nán lại cuối cùng vừa trả tiền xe cho người tài xế và hỏi thăm :
- Từ đây vào Phú Hội có xe không bác ?
Người tài xế trố mắt nhìn Phổ tỏ vẻ ngạc nhiên :
- Trời đất, xe chạy tới đây là cùng đường đó chú.
Phổ gợi chuyện :
- Hồi này dữ lắm hả bác ?
- Mìn hoài, không xe nào dám chạy hết ! Chạy vô xóm Trâu là có chuyện rồi, súng nổ dài dài, lớp mìn, lớp mô lu bù, ở trong đó ngày nào cũng đụng hết , dân chúng bị thương chết đều đều.
- Tuốt trong Phú Hội êm không bác ?
Người tài xế ngó sửng Phổ :
- Êm gì, vùng của mấy cha còn dữ thần hơn nữa. Vô trong đó sống sao nổi, đại bác, bom, đạn tối ngày đâu ai dám ở !
Người tài xế đẩy chiếc xe vào sát lề đường hỏi lại :
- Chú người vùng này ?
- Dạ, gia đình tôi ở Phú Hội.
- Trỏng bây giờ đâu còn ai, chạy hết trơn, lớp ra đây, lớp chạy trốn lên Long Thành, người nào theo mấy cha thì rút vào trong Hang Nai lận…
Người tài xế bỏ lửng câu nói quay ra rước khách đi Long Thành, Phổ ngập ngừng vừa vuốt lại mái tóc xõa trên trán vừa ngó qua khu chợ, anh cố gắng tìm một người quen nhưng không hề thấy ai cả, Phổ đành vào một quán Tàu đối diện kêu cà phê uống.
Phổ ngồi ngay cái bàn thiếc ngoài cùng vừa uống nước vừa để ý sang bên chợ tìm người quen thuộc . Từ phía bên bàn trong, mấy người Nghĩa quân súng đạn lỉnh kỉnh ngồi nhậu la lối ồn ào. Câu chuyện xoay quanh các chiến tích cá nhân, những vụ phục kích đụng độ chết hụt được kể lại với các chi tiết nhỏ nhặt. Một anh Nghĩa quân mặt thẹo vừa chửu thề vừa phanh ngực áo trật hẳn vai trái la lớn với bạn :
- Cái thẹo này là ghẻ ruồi sao mày ?
Tiếng cười rần rộ. Phổ liếc nhìn cái thẹo phẳng lì bóng nhẩy, anh với tay uống một ngụm cà phê. Ngay lúc đó, Phổ chợt nhận ra một người quen đang lúi húi mua bông vạn thọ ở bên kia chợ. Phổ đứng dậy trả tiền rồi lướt nhanh qua đường sang chỗ bán hoa. Anh cất tiếng gọi :
- Thím Tư.
Người đàn bà giật mình buông rớt bó vạn thọ, bà ta ngẩng mặt ngó Phổ rồi reo lên :
- Trời ! Phổ hả, làm tui hết hồn.
Phổ cuống quýt :
- Thím Tư, ở trỏng ra hả… Má tôi còn ở Phú Hội không ?
Người đàn bà nhíu mày :
- Chạy ra ngoài hết trơn… Bom đạn quá chừng ở trỏng không nổi !
- Má tôi bây giờ ở đâu ?
Người đàn bà đưa tay bóp trán :
- Dì Năm cũng chạy ra… ở nhờ đâu đó… Tui có thấy dì và con Cúc ở ngoài này…
Bà Tư ngừng nói lấy tay chỉ về phía đầu chợ :
- Chú thử hỏi bác phó rèn coi… Tôi thấy con Cúc ra vô nơi đó thường lắm.
Phổ mừng rỡ chào người đàn bà rồi hấp tấp đi lại đầu chợ.
Xưởng lò rèn được đặt trong mái hiên của một căn nhà gỗ, phía trước một con bò được cột vào hai đóng gỗ đang được ông già thay móng. Ông già mặt sần sùi, râu tóc lởm chởm ngồi trên cái ghế thấp, hai bàn tay hí hoáy bắt chân trước của con bò đặt lên một miếng da lớn trải trên lòng, Ông già lật ngửa đế chân bò và lấy mũi dao nhọn cậy móng, ông ta đẩy mạnh cán dao, bàn tay thô kệch nổi lên những gân chằng chịt, chiếc móng sắt văng mạnh trên nền xi măng, con bò lồng lộn giữa hai đóng gỗ kềm cứng. Ông già bình tĩnh đặt chiếc móng mới vừa khít vào đế chân bò rồi lấy đinh đóng lại, ông già cắm cúi làm việc không hề biết Phổ bước tới. Đóng xong chiếc móng , ông già thả chân bò xuống, con bò ngoan ngoãn đứng im trong đóng gỗ, ở mép nó còn sùi ra đống bọt trông như một đám bọt xà bông.
Ông già lom khom đứng dậy, tay với chiếc ghế kéo qua phía trái, lúc đó Phổ vội bước lại lên tiếng :
- Thưa bác…
Ông già ngẩng mặt lên, Phổ nhìn rõ đôi mắt đục ngầu ẩn sâu trong khuôn mặt đen đủi, những vết nhăn chằng chịt làm thành từng rãnh chứa mồ hôi. Ông già hất hàm râu tua tủa tỏ ý hỏi. Phổ đến bên đóng gỗ và nói :
- Thưa bác, cho cháu hỏi thăm gia đình bà Năm ở Phú Hội tản cư ra đây ở đâu ?
Ông già vẫn dương cặp mắt trân trối nhìn, hai tay phủi trên miếng da đeo lòng thòng trước bụng, ông ta hỏi :
- Chú hỏi có việc gì ?
Thấy ông già có vẻ ngần ngại, Phổ vội nói :
- Cháu là con bà Năm, bác làm ơn chỉ dùm chỗ ở của má cháu.
Mặt ông già dịu hẳn lại, ông bước tới vui mừng nắm tay Phổ kéo vào bên trong :
- Con dì Năm hả, vào trong này… vào trong này.
Phổ hấp tấp bước theo ông già, anh vấp phải ngưỡng cửa muốn té, ông già kéo mạnh tay Phổ và nói :
- Vào đây, đứng loạng quạng ngoài đó phiền lắm !
Thái độ của ông già khiến Phổ lo ngại. Ông ta kéo Phổ vào nhà, ấn ngồi xuống bộ ván khuất sau cánh cửa nói khẽ :
- Dì năm dặn qua. hễ có ai tìm thì dè chừng, lúc này cả hai bên đều làm khó cho gia đình em hết.
Phổ càng băn khoăn, anh không biết chuyện gì đã xẩy ra, giọng Phổ lo lắng :
- Má cháu hiện giờ ở đâu, bác ?
- À… ở trong bà Hai phía sau đây thôi, để tôi kêu con Út dắt em qua ngay.
Ông già vừa gãi cằm vừa lớn tiếng gọi, một đứa bé gái gầy gò lấp ló sau vách gỗ. Ông già vẫy vào dặn :
- Mày đưa anh qua nhà bà Hai… anh con dì Năm đó.
Con bé dương mắt thao láo nhìn, Phổ đứng dậy nắm lấy tay đứa nhỏ dịu dàng :
- Em đưa anh qua…
Phổ ngoái lại nói với ông già :
- Buổi chiều con qua hầu chuyện bác.
Ông già ậm ừ trong miệng. Đứa bé dẫn Phổ đi lối cửa sau của những thửa vườn cây trái đến một căn nhà gạch, mái ngói trúng đạn sập hẳn một góc người ta đã dùng mấy tấm tôn che đỡ.
Ánh nắng phản chiếu trên mái tôn làm Phổ chói mắt, anh hỏi đứa bé :
- Nhà trúng đạn hồi nào vậy em ?
Đứa bé trả lời miễn cưỡng :
- Lâu rồi !
Hình như con bé có thói quen ngần ngại với người lạ, khi tới gần căn nhà nó nói:
- Nhà bà Hai đó.
Chưa dứt lời, con nhỏ đã quay ngoắt người chạy tung tăng trong vườn. Phổ bước tới, Anh nhìn ngay thấy Cúc ngồi nơi cửa của căn nhà gỗ phía sau, Cúc đang ngồi dỡn với một con mèo nhỏ. Phổ gọi lớn :
- Cúc.
Cúc giựt mình quay ra, reo lên :
- Chú, Chú…
Cô tất tả đứng dậy bước vội ra ngoài rồi đứng sửng lại ngó. Phổ thoáng nhận trong ánh mắt của Cúc sự ái ngại. Cô cắn chặt lấy môi, Phổ vột hỏi :
- Má đâu.
Giọng Cúc run rẩy :
- Trông chú vừa gầy vừa đen, lạ hẳn đi. Bà ở trong nhà.
Cúc đẩy cửa vào nhường lối cho Phổ, anh vừa bước vào nhà đã thấy má nằm co ro trên võng, bà cụ đang ngủ, tiếng thở khò khè phát ra từng đoạn, biết ngay là mẹ đang bị cơn bịnh kinh niên hành hạ, Phổ quay lại phía Cúc giọng lo lắng :
- Má bịnh từ bao giờ ?
Cúc ngập ngừng :
- Bà bịnh cả tuần lễ rồi…
Phổ nhìn mẹ, anh thấy đau đớn và trắc ẩn đến nghẹn ngào. Anh nói khẽ với Cúc :
- Để yên cho má ngủ, cô ra ngoài này cho tôi biết qua chuyện nhà một chút.
Phổ và Cúc bước ra ngồi ở hiên sau, trước mặt là vườn cây rộng. Phổ hỏi Cúc :
- Chạy ra ngoài này lâu chưa ?
- Lối hai tuần rồi chú.
- Ở trong lộn xộn dữ sao ?
- Bom đạn tối ngày không ai ở được.
- Chi hai và mấy đứa nhỏ đi đâu ?
Cúc ngập ngừng… Phổ quay qua thấy nước mắt Cúc vòng quanh sắp khóc, giọng Cúc lo lắng :
- Thiếm và mấy đứa nhỏ theo chú vào tận Hang Nai.
Phổ ngạc nhiên quay qua hỏi dồn :
- Sao không chạy ra ngoài này, vào trong đó làm gì cho mệt.
Cúc đã lấy lại bình tĩnh, giọng nói trầm hẳn :
- Ở nhà nhiều chuyện rắc rối quá chú ơi, chú Hai bị kẹt cứng ở trỏng đâu có dám chạy ra ngoài này nữa.
- Sao kỳ thế ?
Cúc kể lể :
- Mấy người Nghĩa Quân đòi bắn bỏ chú Hai, cháu và bà chạy ra ngoài này vẫn bị họ theo dõi thưòng ngày.
Phổ sốt ruột nhìn Cúc :
- Nghĩa Quân ở đâu lối thế ?
Kẹt lắm chú ơi, chả là tháng trước chú Hai đi họp với mấy ông Mặt Trận ở dưới Bến Cam sao đó, giữa đêm, Nghĩa quân nhào tới vây bắt, hai bên bắn nhau khiến một nghười Nghĩa quân chết, một người bị thương, chú Hai chạy thoát nhưng lại đánh rớt giấy tờ. Nghĩa quân lượm được và từ hôm đó ở nhà bị rắc rối hoài…
Phổ nhăn nhó hỏi lại :
- Bộ hồi này mấy cha bắt anh Huỳnh hoạt động dữ lắm sao ?
- Cháu không biết rõ, nhưng thấy chú Hai phải đi họp tối ngày, thiếm hai lo lắm, có lần thiếm nói với cháu “có người cán bộ ở xã bị chết, chú Hai bị mấy ông bắt lo việc thế”. Nghe Cúc nói, Phổ đã hiểu được phần nào những nỗi khó khăn của gia đình gặp phải, anh cũng hiểu ông già lò rèn có vẻ ngần ngại hồi nãy. Anh hỏi Cúc :
- Từ hôm ra đây cô có gặp anh Hai lần nào không ?
- Vài bữa, thấy êm cháu lại về Phú Hội một lần, cháu gặp chú Hai lẩn quẩn ở mấy nhà trong xóm Hố, chú có vẻ lo lắng dữ, người gầy hẳn đi, chú Hai nói thím và mấy đứa nhỏ vẫn khỏe, chú Hai còn dặn cháu rằng hễ chú có về thì nói chú nên lánh mặt để người ngoài ngó thấy kẹt cho chú Hai ở trỏng lắm.
- Cô gặp anh Hai một mình hay còn có ai đi theo không ?
- Mấy lần gặp chú Hai đều có người lạ hết, chú Hai có vẻ bận việc lắm chỉ nói với cháu ít câu rồi bỏ đi ngay.
Phổ thở dài nhìn ra ngoài vườn, nắng thật chói chang. Những cây trầu lá vàng rực quấn quanh mấy thân cau rêu mốc. Anh hỏi Cúc sơ qua về gia cảnh người chủ nhà, tình hình ở Phước Thiền, càng nghe Cúc nói, Phổ càng thấy một trăm chuyện khó khăn đang tới tấp xảy đến cho gia đình anh. Cúc ngó Phổ rồi nói :
- Chú ra rửa mặt cho khỏe đã.
Phổ theo Cúc ra cạnh lu nước đặt dưới một gốc cau. Cúc lấy chậu thau, khăn mặt và múc nước cho Phổ. Phổ vục mặt vào thau nước mưa mát rượi, anh thấy đỡ mệt một phần nào. Rửa mặt xong, Phổ với tay lấy chiếc gáo múc nước mưa trong lu nước uống, giòng nước mát mẻ chạy qua cuống họng đắng chát làm dịu hẳn cơn nóng đang bốc lên hừng hực trong người.
Cúc đứng ở phía sau, lúc này cô mới hỏi về đời sống quân ngũ của Phổ. Anh quay lại nhìn Cúc, Cúc vắt chiếc khăn lên sợi dây phơi, cô bé lớn hẳn lên cùng với những lo âu ảm đạm trên khuôn mặt, bỗng nhiên Phổ thấy ái ngại và thương Cúc.
Có tiếng rên từ trong nhà vọng ra, Cúc chạy vội vào miệng nói :
- Bà dậy rồi đó chú.
Phổ bước nhanh vào bên võng, anh gọi :
- Má… Má…
Bà năm nghe tiếng gọi mở choàng mắt dậy, người mẹ nhận ra đứa con bằng những giọt nước mắt chảy ướt đầm gò má nhăn nheo. Phổ ngồi xuống bên võng, giọng bà Năm đứt đoạn :
- Con về hồi nào…?
- Dạ vừa về.
Câu chuyện giữa hai mẹ con tiếp tục với những tiếng nấc nghẹn ngào. Bà Năm cựa mình trên võng nhìn Cúc rồi nói với Phổ :
- Bây giờ má chỉ còn biết trông cậy vào con nhỏ, hai đứa bây… mỗi đứa một nơi má không còn biết làm sao cho tụi bay nữa.
Phổ cắn môi yên lặng, anh cố gắng nuốt từng tiếng nấc của má. Phổ đau đớn đến tê dại nhưng không thể khóc được, không còn khóc được, qua khung cửa sổ anh thấy một tàu lá chuối khô xơ xác còn treo lủng lẳng dưới thân cây.
Từ đó cho đến buổi chiều, Phổ quanh quẩn trong nhà phụ với Cúc cho má uống thuốc, ăn cháo. Tất cả các công việc đó khiến Phổ càng thấy rõ sự mật thiết của Cúc đối với gia đình. Anh nhận thấy rằng Cúc đảm đang hơn lúc trước rất nhiều.
Sau bữa cơm, Cúc dẫn Phổ lên nhà trên gặp bà Hai, bà Hai tỏ ý vui vẻ khi thấy Phổ được về thăm má, tuy nhiên bà cũng bảo Cúc phải đưa Phổ sang bên nhà ông Liên gia Trưởng khai báo để tránh chuyện phiền phức. Lúc trở về nhà thì trời đã xẩm tối, Cúc hí hoáy lôi ngọn đèn chai ở dưới gầm ván ra thắp lên trên trước hiên nhà, Cúc nói với Phổ :
- Có lệnh trong đồn, đêm đến phải treo đèn trước cửa để lính đồn khỏi bắn nhầm.
Phổ nhìn ngọn đèn chai hộ mạng hắt hiu, đong đưa trong cơn gió và cảm thấy buồn nản lạ thường. Cúc treo đèn xong kêu Phổ vào nhà đóng cửa lại. Cúc lại nhắc thêm một lệnh nữa của đồn lính :
- Đêm đến không ai được ra khỏi nhà.
Cúc bước tới bên võng đưa bà Năm lại phía hầm nổi, Phổ chạy lại đỡ một bên, giọng Cúc thì thào :
- Đêm phải ngủ trong hầm tránh đạn lạc.
Hai người dìu bà Năm tới cạnh hầm nổi đưọc thiết lập ở một góc nhà. Đó là một bộ ván, bên trên trải từng lớp bao đất, chung quanh được đắp thật dày. Chỉ ngỏ lỗ đủ để một người chui lọt.
Phổ đỡ má chui vào hầm, qua ánh đèn dầu Cúc cầm trong tay, Phổ thấy bên trong được trải chiếu, chăn gối đầy đủ như một giường ngủ. Bà Năm chui vô nằm gọn trong hầm quay ra nói với Phổ:
- Đêm nay chịu khó nằm cả trong này cho chắc ăn…
Phổ chưa kịp trả lời thì Cúc đã nói :
- Ở trỏng rộng lắm, nằm ba bốn người cũng được. Ở đây đêm nào cũng nghe súng nổ hết trơn.
Phổ nói :
- Thôi, để tôi nằm ở võng, súng nổ chạy vào cũng kịp.
Bà Năm ậm ừ trong hầm, tiếng Cúc át hẳn :
- Không được đâu chú, nằm ngoài nguy hiểm lắm, mới hôm trước đạn bắn lủng ván lọt tuốt vô nhà.
Cúc cầm cây đèn dọi lại bên vách tìm vết đạn.
Phổ đứng dậy quyết định :
- Thôi được, cô cứ vào ngủ trước đi, tôi tháo chiếc võng đem lại mắc kế hầm có chuyện gì nhào vô kịp chán.
Thấy Phổ cương quyết nằm ngoài, Cúc vội tháo chiếc võng đem lại máng kế hầm nổi. Cúc lo dọn chỗ ngủ cho Phổ xong xuôi mới chịu tắt đèn chui vào hầm ngủ.
Cúc và Phổ thì thào nói chuyện thật khuya, những tiếng súng đì đùng từ xa vọng lại xen kẽ trong cơn suyển khò khè của má Phổ.
Trong đêm hình như Phổ chỉ thiếp đi từng lúc vì mệt, những tiếng súng rời rạc làm anh giật mình thức giấc và anh thấy sợ hãi cái bóng tối dày đặc của vùng Phước Thiền này.
Buổi sáng Phổ dậy thật sớm nhưng vẫn nằm lì trên võng hút thuốc. Cúc căn dặn chờ cho trời sáng hãy mở cửa ra ngoài, Phổ nằm đợi tiếng động của những căn nhà kế cận và anh thấy thời gian chậm chạp vô cùng.
Có tiếng sột soạt trong hầm, hình như Cúc đã thức dậy, Phổ im lặng nhìn mẩu thuốc lập loè, chỉ còn đóm lửa nhỏ nhoi này trong bóng tối bao phủ. Tiếng động trong hầm kéo dài và mạnh một lúc, giọng Cúc ngái ngủ :
- Chú không ngủ được sao, trời còn sớm lắm !
Phổ buột miệng đáp :
- Tôi vừa thức dậy.
- Không nhìn thấy chú hút thuốc, cháu đâu biết chú thức…
Giọng Cúc tỉnh táo hơn :
- Chú tính ở mấy ngày.
- Định về một ngày để biết tin nhà, nhưng má ốm thì phải ở lại cho đến khi hết phép.
Cúc nhoài người ra khỏi miệng hầm. Phổ trông thấy mái tóc bù xù lấp ló :
- Đã lâu bà không bị suyển, có lẽ hồi này bà lo quá nên bệnh, ra ở ngoài này vài bữa, bà tính sai cháu vào rước thím Hai và mấy em ra luôn, nhưng hôm cháu vô được trỏng thì thím Hai đã dắt mấy em chạy vào Hang Nai rồi. Từ ngày đó bà nhớ mấy em hoài, phần lo cho chú Hai, cho chú nữa. Ở ngoài này bà than buồn và cứ muốn về trỏng, nhưng chú Huỳnh dặn cháu cố giữ bà ở ngoài này cho đến khi nào êm đã.
Phổ hỏi lại :
- Sáng nay Cúc tính về trỏng sao ?
- Dạ, bà nói cháu vô gặp chú Hai xem tình hình thế nào ?
Phổ lo lắng :
- Cô coi chừng đó, loạng quạng kẹt ở trỏng thì mệt.
Cúc im lặng một lát rồi nói, giọng nói tin tưởng :
- Cháu ra vô hoài đâu có ăn nhằm gì, khi nào thấy người ta đi được thì mình mới vô chứ đâu có đi ẩu mà sợ.
- Cô nên cẩn thận, lúc này cả nhà chỉ còn trông cậy có mình cô.
Cúc lảng chuyện :
- A, hôm nay cháu phải đi dắt con chó ra cho bằng được, mấy lần bà dặn cháu mang nó ra cho đỡ buồn, nhưng lần nào vô trỏng rồi cũng quên đi mất.
Giọng Phổ trầm xuống:
- Hôm nay vô được, cô nhớ nói với anh Hai cho tôi điều đó, cô nói rõ với anh Hai nếu có thể, thoát được ra đây tôi có thể bảo đảm cho anh Hai được.
- Cháu cũng nghĩ rằng chú Hai đâu có muốn ở trong đó, nhưng hình như mấy người kia ở đây theo dõi chú Hai ghê lắm, chỉ trong nhà mới biết chú đi lính chứ người ngoài cứ tưởng chú còn đi học.
Hai người nói chuyện cho đến lúc mờ sáng, Phổ nhìn rõ đầu tóc Cúc rối bù, hai mắt nàng thâm quầng khiến anh trắc ẩn. Cúc đứng dậy khỏi miệng hầm, cô đi ra cửa vừa đi vừa vuốt lại mái tóc, Phổ nhìn theo, anh thấy Cúc mảnh mai với bước đi lênh đênh lạ thường. Đột nhiên, Phổ thấy lo lắng cho Cúc.
Cúc đã mở cửa, ánh sáng tràn vào, Phổ nhìn rõ ngoài vườn những chiếc lá ướt đẫm sương đêm, mầu xanh êm đềm ngợp mắt, Phổ không thể tưởng tượng được trong cái quanh cảnh dịu dàng này lại có muôn vàn tai biến đang rình rập.
Buổi sáng, Cúc bận bịu với mọi công việc lặt vặt. Phổ đỡ má ra khỏi hầm và đặt nằm trên võng, tiếng má thều thào Phổ tưởng chừng chỉ một cơn gió mạnh giọng nói cũng đứt đoạn. Phổ cố gắng xua đuổi cái ý nghĩ đen tối đi nhưng anh vẫn nghe thấy hơi thở của má khò khè, hình như trong cuống họng của má có gì chặn ngang mà hơi thở phải len lỏi, trườn qua mới thoát được ra ngoài.
Khoảng tám giờ, sau khi sắp xếp công việc chu đáo, Cúc mới vô Phú Hội. Suốt buổi sáng, Phổ quanh quẩn bên má, anh vừa lo lắng cho Cúc, có thể bây giờ Cúc đã về tới Bến Cam, Phổ tưởng chừng như nhìn thấy con đường đất đỏ ngoằn nghèo qua các mảnh vườn, Cúc đi với một nhóm người quen thuộc. Hai bên đường lộ mát rợp bóng cây, những chùm chôm chôm chín đỏ lắt líu trên cành. Từ sáng Phổ không hề nghe thấy súng nổ, nhất định hôm nay mọi sự đều bình yên. Cúc về tận Phú Hội, đẩy cửa vào nhà và gặp anh Huỳnh ngay lối đi trồng bông Hoàng Điệp.
Tất cả mọi sự đều bình yên như khoảng vườn này, cây lá rung rinh trong nắng, không có một trở ngại nào xẩy ra, Phổ cứ nhắc như vậy. Phổ liếc nhìn mẹ nằm trên võng , cái chăn đắp ngang trên người má phẳng lặng, cả người má khuất chìm trong tấm chăn rộng màu xám.
Phổ có cảm tưởng thân thể má mỗi ngày một mỏng dần, sự yếu ớt mỏng manh đến lo âu, đến tội nghiệp. Hình như má đã chợp mắt, Phổ thầm mong má ngủ yên, bởi vì má thức thì chỉ biết khóc, dòng nước mắt chảy dài không nguôi trên những rãnh sâu của khuôn mặt nhăn nheo luống tuổi. Phổ rón rén kéo tấm chăn cao lên khỏi ngực má, rồi bước ra ngồi hút thuốc trước nhà. Qua khoảng sân lát gạch thẻ hẹp, tới vườn trồng cây trái thật rộng, những cây xoài sung sức cành lá vươn dài, những dây trầu lá vàng óng quấn quýt quanh các thân cam cao nghệu, những cây vú sữa to lớn xuề xòa. Cả khu vườn tràn đầy màu sắc trong nắng ấm, những con chim ríu rít bay nhảy. Thốt nhiên, Phổ tiếc nhớ tuổi thơ, mới ngày nào còn được chơi đùa , chạy nhảy qua các vườn cây rộng ở quê nhà.
Gần trưa, Cúc từ Phú Hội ra. Cô khệ nệ cắp một rổ đầy trái cây, một tay dắt con chó vàng bước vào nhà, Phổ vừa nhìn thấy Cúc vội chạy lại đỡ lấy chiếc rổ nặng nề, Cúc lúng túng đến bối rối khi trao rổ trái cây cho Phổ. Mặt đỏ gay vì nắng, mồ hôi đầm đìa nhễ nhại, cô đưa tay khẽ gỡ những sợi tóc dính sát vừng trán. Con chó thè lưỡi thở hồng hộc bên ngưỡng cửa. Phổ bê rổ trái cây đặt gần bộ ván , lúc đó anh mới kịp để ý tới một bó Hoàng Điệp lá xanh mướt đặt sát cạp rổ, những trái sầu riêng sực nức mùi thơm, những chùm chôm chôm chín đỏ, Phổ quay lại đã trông thấy Cúc đứng bên, anh vội hỏi :
- Về nhà có gì lạ không cô ?
Cúc lấy tay áo vuốt mồ hôi trên trán :
- Dạ, cháu gặp chú Hai.
- Anh nói gì không ?
- Dặn chú đừng để người ngoài thấy mặt.
Phổ thở dài, Cúc ngồi xuống bên cạnh rổ trái cây Cúc nhấc bó Hoàng Điệp trao cho Phổ giọng đầm ấm :
- Hoàng Điệp chú trồng đã có bông rồi đấy.
Phổ cầm bó hoa, quàng tay đặt trên ván, anh hỏi dồn Cúc :
- Cô gặp anh Hai lâu không ?
Cúc thở dài ngập ngừng :
- Dạ lâu.
- Anh hai thế nào ?
- Chú hai vẫn khỏe, có điều lo lắng cho bà và chú lắm.
Cúc vừa nói vừa nhìn lại võng, bà Năm vẫn còn ngủ.
- Cô gặp anh Hai ở đâu ?
Cúc thẫn thờ nhấc từng bó chôm chôm đặt xuống nền nhà, giọng nói gượng gạo :
- Trong xóm Hố.
Cúc trả lời cộc lốc, Phổ kịp nhận ra sự hờn dỗi kín đáo của Cúc, Phổ thầm trách mình nóng nẩy quên khuấy chuyện lặn lội vất vả của Cúc. Nhìn Cúc cúi mặt, bàn tay xoải dài trên vỏ trái sầu riêng gai góc, Phổ mỉm cười giọng dịu dàng :
- Đi đường cực lắm hả cô ?
- Thường thôi, chú.
Phổ biết Cúc còn giận dỗi, anh nói khẽ :
- Cúc ra cửa rửa mặt cho khỏe đã, chốc nữa kể cho tôi nghe một lượt tình hình trong đó, tôi muốn biết rõ ràng mọi điều để tính chuyện cho gia đình đỡ kẹt… xin lỗi Cúc, vì nóng biết chuyện anh Hai, nên tôi quên mất Cúc mới về còn mệt.
Giọng nói Cúc âm thầm :
- Ăn nhằm gì chú, tại hỏi dồn quá cháu không biết nói thế nào cho kịp nữa .
Phổ mỉm cười, anh đứng dậy nhìn đóa Hoàng Điệp nằm soài trên mặt ván. Phổ vội cầm bó hoa , rút lấy một bông, anh mê mải nhìn cánh hoa rực rỡ, bông hoa nở tung, tuyệt vời như một cánh bướm bay lên “không đó là một cánh Chim Thiên Đàng”. Thúy An đã nói như thế và cũng chính vì điều đó Phổ đặc biệt yêu thích loài hoa này, anh đã đem giống về trồng ở Phú Hội vào mùa hè năm ngoái. Có điều Phổ ngạc nhiên đến thích thú là cả nhà đều chê loại hoa này, chỉ có Cúc khen đẹp. Phổ quay lại bắt gặp ánh mắt long lanh của Cúc. Phổ vội giơ cao bông Hoàng Điệp lên :
- Cúc có thấy bông này đẹp không ? Như một con bướm vàng vậy, nhưng sách vở thì rắc rối gọi nó là chim Thiên Đàng.
Cúc chợp vui, giọng trong trẻo :
- Nó mảnh mai dễ thương quá.
Phổ cười đùa :
- Hoa mà cứ coi như là người ấy.
Cúc tươi tỉnh, đuôi mắt kéo dài cong vút, Phổ ngạc nhiên, anh không ngờ Cúc có nụ cười lạ lùng như thế, lần đầu tiên suốt từ hồi Cúc về sống với gia đình anh, Phổ mới bắt gặp nụ cười trong sáng đó. Nhưng nụ cười tươi vui đó chỉ chợt lóe lên, vụt cháy như một lằn chớp rồi lại tắt ngấm trên khuôn mặt u buồn của Cúc. Niềm vui của Cúc thật ngắn ngủi khiến Phổ thương hại, anh thấy khó lòng kéo Cúc ra khỏi những mặc cảm, những đau thương đầy ắp của Cúc. Điều mà anh thường nghĩ về Cúc là sự lạc lõng. Cúc cố nương tựa vào cái tình thân thiết của gia đình anh, bỏ quên bớt những cay đắng riêng tư, nhưng cái khó khăn của Cúc mà Phổ nghĩ vẫn là Cúc lỡ được đi học, lỡ biết suy nghĩ và phải cố gắng sống hồn nhiên bên cạnh những chất phát chung quanh. Hoàn cảnh đã đặt Cúc ở vào cái thế khấp khểnh giống cái răng cưa trồi lên, lạc loài quay theo một bánh xe với nhiều răng cưa bình dị : Phổ vẫn thầm cho rằng tới một lúc nào đó hoặc là cái răng cưa lạc loài này phải mài nhẵn để ăn khớp với các răng cưa khác, hoặc bị siết đến văng ra . Dù ở trong trường hợp nào Phổ điều thấy Cúc tội nghiệp hết. Sự suy luận ấy Phổ đã nhận xét qua các sinh hoạt của Cúc lúc còn ở Phú Hội. Cúc không có bạn thân và dường như Cúc bơ vơ, lạnh nhạt với tất cả những người chung quanh. Một điều ngạc nhiên hơn cả là ở Cúc, Phổ thấy có nhiều điểm giống Hằng, giống An, một cái gì tinh nghịch, kiêu kỳ ẩn khuất dưới khuôn mặt buồn thảm.
Thấy Phổ đột nhiên im lặng, Cúc lên tiếng, giọng nói lạnh lung cố hữu :
- Buổi sáng cháu vô trỏng đâu có đi trên lộ.
- Sao thế ?
- Mấy cha đang đắp mô dài dài, đám người vô trỏng đều phải băng vườn hết trơn.
- Băng vườn nguy hiểm lắm !
Cúc thở dài :
- Người ta đi thường mà chú… Người ta vô được thì mình cũng đi được, lần nào vô trong ấy cũng phải nhập bọn với mấy người khác, chứ đâu có đi một mình khơi khơi mà sợ.
Phổ đặt bông hoa trên ván, anh tựa người vào bờ đất hỏi Cúc:
- Cô về tới nhà có gặp ai không ?
Cúc bê mấy trái sầu riêng đặt vào khoảng ván để trống không trải bao đất và nói :
- Cháu về tới nhà vắng hoe, ớn quá phải quay ra kêu chị Hồng đi cùng.
Cúc với tay lấy ấm nước vừa rót vào ly vừa tiếp :
- Nhà cửa bụi phủ đầy, cỏ mọc bừa bãi khắp nơi, cả trong hàng hiên cũng có cỏ mọc. Cháu và chị Hồng ghé vô nhà một chút thấy buồn quá, bèn ra vườn bẻ trái.
Cúc đưa ly nước lên uống rồi tiếp :
- Vườn mùa này nhiều trái, phải chi về hoài được bẻ bán cũng bộn tiền.
Phổ lái câu chuyện :
- Rồi làm sao cô vô được Xóm Hố gặp anh Hai ?
Cúc ngồi xuống bờ đất tiếp tục kể chuyện :
- Cháu và chị Hồng bẻ trái một lát đầy rổ, không biết làm gì nữa, tính ra lộ có gặp ai không, vừa ra tới lộ gặp ngay mấy người quen trong xóm Hố, cháu theo họ vô luôn.
Cúc vừa nói tới đó thì Phổ nghe tiếng gọi yếu ớt của má, anh quay qua võng và thấy con chó đã tìm lại đứng bên võng chiếc đuôi ve vẩy, miệng đánh hơi vào mép võng, giọng bà Năm run run :
- Cúc nó ra hồi nào ?
Cúc đã đứng cạnh võng đáp khẽ :
- Cháu vừa mới ra, có dắt theo con chó.
Bà Năm cố gắng thò bàn tay run rẩy vuốt ve lên đầu con chó và hỏi Cúc :
- Cúc có gặp được chú Hai không ?
- Dạ có.
Phổ xen vào :
- Má thấy đỡ bịnh chưa ?
Bà năm mệt nhọc đáp lại :
- Cũng thấy bớt hơn hồi sáng.
Phổ đẩy con chó lại gần võng hơn :
- Má cứ yên trí, con hỏi Cúc rồi, nó nói anh chị Hai và mấy đứa nhỏ bằng an cả. Má nằn nghỉ đi, để con hỏi rõ Cúc tình hình trong đó rồi bàn với má sau.
Phổ đưa mắt ra hiệu cho Cúc và chỉ ra ngoài hiên. Cúc hiểu ý Phổ, cô nhanh miệng nói :
- Trời đất, mưa quá rồi, để cháu đi nấu cơm mới được.
Cúc nói rồi nhanh nhẹn bước ra. Phổ ngồi nán lại cho mẹ uống nước rồi nói :
- Má có ăn cháo để con nói Cúc lấy lên.
Bà Năm lắc đầu từ chối. Phổ kéo chăn đắp lại ngay ngắn cho má :
- Má nằm nghỉ, để con phụ với Cúc một chút.
Bà Năm tỏ ý bằng lòng. Phổ đứng dậy, anh nhìn thấy tay má vuốt dài trên lưng con chó.
Cúc đang vo gạo nấu cơm ở cửa bếp, Phổ tìm xuống tiếp tục câu chuyện bỏ dở. Anh hỏi Cúc :
- Cô vô tới xóm Hố thấy trong đó ra sao ?
Cúc vừa đổ gạo vào nồi vừa nói :
- Gặp mấy người du kích gác dài dài họ xét giấy tở lôi thôi quá.
Cúc cúi xuống thổi cho bếp lửa cháy lớn rồi tiếp :
- Thấy họ xét hỏi lằng nhằng cháu nói đại là người nhà ở Phú Hội vô thăm chú Hai. Nghe nói tên chú Hai, họ tỏ ra dễ dàng ngay. Một du kích dẫn cháu vô tuốt trong một ngôi nhà ngói và cháu gặp chú Hai ở trỏng.
Phổ dựa lưng vào cửa bếp hỏi Cúc :
- Anh Hai nói gì với cô ?
- Có mặt mấy người lạ, súng ống lu bù cháu đâu có dám nói chuyện gì. Cháu chỉ hỏi thăm thiếm Hai và các em ngồi nói chuyện nhà một lúc lâu, chờ cho mấy người lạ ra cháu mới cho chú Hai biết chú về.
Cúc lấy tay đẩy thêm củi vào lòng bếp :
- Nghe nói chú về phép ngoài này , chú Hai lo lắm. Chú dặn cháu ra nói chú liệu tránh gặp người ngoài và liệu đi lại kín đáo.
Phổ băn khoăn :
- Cô có biết rõ tại sao anh Hai nói thế không ?
- Chú Hai nói rằng nếu họ biết được chú đi lính thì mệt cho chú Hai lắm.
Giọng Cúc lớn hẳn :
- À, chú Hai gửi tiền cho chú… từ nãy đến giờ cháu quên đi mất.
Cúc vừa nói vừa móc túi lấy một gói giấy trao cho Phổ. Phổ vội nói :
- Thôi cô giữ lấy để lo việc nhà, tôi ở trên đó có việc gì phải tiêu đâu.
Cúc lớn tiếng :
- Chú hai nói cháu đưa cho chú, ở nhà thì thiếu gì, chú ở trên đó lương lính đâu có đủ. Hơn nữa mùa này đang mùa trái, cháu về trỏng hoài, nội bẻ trái cây trong vườn bán cũng dư tiền đi chợ, vô bất tử mấy cha đâu biết mà thâu thuế.
Cúc ấn gói giấy vào tay Phổ, khiến Phổ gắt gỏng :
- Tôi nói cô giữ lấy.
Cúc miễn cưỡng giữ lại gói tiền, Phổ dịu giọng hỏi tiếp :
- Theo cô thì anh Hai có kẹt lắm không, cô có nói việc tôi nhắn anh kiếm cách thoát ra đây không ?
- Có, cháu có nói vụ đó, nhưng thấy chú Hai tỏ ý khó chịu, chú nói với cháu rằng “mày về bảo nó lo phận của nó, tao không ngu gì đâu, nó có biết ở đây tao kẹt đủ thứ chuyện hết, vợ con bị bắt buộc đưa cả vào Hang Nai, chứ tao đâu có ngán gì mấy thằng Nghĩa quân ngoài đó”.
Phổ thở dài, Cúc nhìn Phổ giọng nói dịu dàng :
- Chú cũng không nên lo nghĩ quá chỉ thêm khổ thôi, ở đây không phải chỉ có gia đình mình kẹt, ai cũng khổ hết làm sao sống được là may lắm rồi.
Phổ nhìn Cúc cắm cúi nấu cơm :
- Chút nữa có lên nhà gặp má, cô nên nói sơ sơ cho má nghe thôi…
Giọng Cúc âm thầm :
- Cháu đâu dám nói với bà mấy chuyện kẹt của chú Hai, sợ bà lo quá bịnh thêm.
Phổ chép miệng buồn bã :
- Tôi đi, ở nhà chỉ còn biết trông cậy ở cô lo cho má thôi, thú thực với cô, lúc này tôi không còn biết phải lo liệu thế nào cho êm nữa !
- Sao chú cứ nói hoài chuyện đó, cháu chỉ mong chú đi được yên thân thôi, mấy chuyện ở nhà đâu có gì đáng lo ngại hết. Từ trước đến nay xảy ra thường mà, có lo lắm chỉ thêm mệt mà thôi, tới đâu lo tới đó, chuyện gì rồi cũng êm hết. Chú cứ nhăn nhó, lo nghĩ hoài bà thấy được bệnh thêm thì khổ !
Phổ cúi đầu nhìn mấy con kiên bò chênh vênh trên cột gỗ, giọng Cúc nhẹ nhàng :
- Chú biết không, ở nhà bà nhắc chú hoài, ai cũng lo cho chú ở trên đó hết.
Phổ nhìn thẳng vào mắt Cúc dằn giọng :
- Lo là lo ở nhà này, tôi ở trên đó không có gì đáng lo hết cả !
Mắt Cúc chớp mau, cô cắn chặt lấy môi rồi nhìn thẳng Phổ :
- Cháu biết chú cố dấu đủ chuyện cho nhà bớt lo, chú có thể dấu bà được, chứ cháu biết rõ ở trên đó chú cực, lại đụng trận hoài, cháu quen mấy chị vợ lính ở chỗ chú, họ nói trên đó nguy hiểm lắm, họ còn biết rõ đại đội chú mới bị đánh ở Bà Rá nữa. Những chuyện đó cháu đâu có để bà hay được, nhưng chú không cẩn thận lỡ sao thì khổ.
Khói bếp tỏa đầy, Cúc lấy tay dụi mắt lia lịa.
Phổ đứng nói chuyện với Cúc suốt buổi trưa, anh không ngờ Cúc biết rõ mọi chuyện và Cúc đảm đang công việc gia đình đến thế. Vai trò của Cúc trong gia đình anh lúc này không còn phụ thuộc như trước nữa. Cúc chủ động trong mọi công việc, điều này khiến Phổ thầm cảm phục Cúc nhưng cũng không khỏi xót xa, ngượng ngập với chính mình. Phổ thấy hoàn cảnh càng lúc càng tách rời anh khỏi những trách nhiệm mà đáng lý ra anh phải gánh lấy để lo lắng, giải quyết.
Phổ ở lỳ ở Phước Thiền phụ với Cúc săn sóc mẹ cho đến ngày hết phép. Bà năm cũng đã bớt bịnh và có thể đi lại được trong nhà. Đối với mẹ, Phổ cố giữ kín hoàn cảnh của mình để mẹ bớt lo, nhiều lần bà Năm vừa khóc vừa nói với Phổ “má đã già rồi, trước khi nhắm mắt chỉ mong được nhìn thấy con cái đông đủ”. Nhắc tới Huỳnh, bà Năm càng thương hơn “con cái nó chạy tuốt vô Hang Nai không biết ăn ở thế nào?” Phổ và Cúc phải thay nhau an ủi bà Năm, nhưng bà Năm vẫn không thể quên được sự chia cách của Huỳnh và Phổ. Bà nói “tao chỉ biết tao là mẹ chúng bay, mỗi đứa ở một phe rồi đây tao biết bỏ đứa nào nghe đứa nào”.
Nếu Phổ đã dấu kín hoàn cảnh của mình, của anh Huỳnh với mẹ, thì ngược lại anh không hề dấu Cúc điều gì. Những tính toán, những lo âu đều được cả hai chia sẻ cho nhau. Phổ thấy không còn gì ngăn cách anh và Cúc nữa, những khó khăn đã đưa Cúc lại vị trí một cô em gái ngoan ngoãn, đảm đang. nhiều lúc nhìn Cúc, phổ thấy lo lắng không biết đời sống sẽ đưa đẩy Cúc tới đâu. Trước những săn sóc của Phổ, Cúc đã cảm động đến bối rối.
Hôm Phổ từ biệt gia đình để trở lại đơn vị, cả mẹ anh và Cúc đều khóc. Phổ phải cố gắng lắm mới bước ra khỏi nhà.
Buổi sáng đầy mây mù, Cúc đưa Phổ ra tận bến xe, khi xe chạy Phổ thấy rõ Cúc ôm mặt khóc. Ngồi trên xe, Phổ tưởng như mình hỏng khỏi mặt ghế, anh thầm ao ước phải chi anh có thể khóc được như mẹ, như Cúc, có lẽ bớt khổ tâm hơn, băn khoăn với các ý nghĩ rối loạn xe về tới Long Thành mà Phổ không hay. Người tài xế phải nhắc Phổ xuống xe, Phổ như người mất hồn, anh luống cuống bước xuống đất, anh thọc tay vào túi trả tiền xe, tay Phổ chợt đụng vào gói giấy. Phổ vội rút ra và anh nhận ngay được gói tiền của anh Huỳnh, Cúc đã lén nhét vào túi quần anh hồi nào anh không biết.
Về tới Saigon, Phổ chỉ kịp ghé Đằng lấy đồ để đi Bình Dương gấp, Phổ tính ít nhất cũng phải nằm lại Bình Dương một ngày chờ trực thăng đi Phước Long, như thế có thể bị trễ phép vài ngày. Thấy Phổ vội vã, Đằng nhắc nhở :
- Mày không ghé qua An sao, mấy ngày nay gặp tao, em hỏi thăm mày. Khiếp, tao cũng đoán mày có chuyện kẹt dưới đó nên ở lì luôn, nhưng em thì tỏ ra nóng ruột dữ.
Câu nói của Đằng làm Phổ bối rối. Thực ra, Phổ có ý định là cứ lên thẳng Phước Long rồi viết thư cho An là ổn nhất. Phổ có thói quen tránh né mọi người khi gặp chuyện khó xử, anh nghĩ rằng những chuyện rắc rối riêng tư thì mình nên cam chịu và tự giải quyết lấy, Phổ vốn không muốn làm lan rộng các lo lắng vô ích cho người khác và vì thế Phổ thấy ngại gặp An lúc này. Có thể việc bỏ đi bất tử sẽ làm An buồn, nhưng Phổ vẫn tin rằng tình yêu thắm thiết sẽ làm tan biến được những đám mây mù mỏng manh. Phổ cắn môi suy nghĩ rồi nói với Đằng.
- Hay tao viết vài chữ, mày đưa cho An giúp tao.
Đằng nhìn Phổ nghiêm giọng :
- Gấp thế cơ à ?
Phổ đáp cụt ngủn :
- Ừ.
Phổ lấy mảnh giấy để trên bàn viết thư cho An, trao cho Đằng rồi nói :
- Nhờ mày nói với An giúp, tao phải đi bất tử nên không ghé An được, chuyện nhà binh vốn thế, chẳng có gì đáng ngại hết, tao sẽ viết thư cho An sau.
Cũng chính vì muốn tránh mọi phiền phức, Phổ đã ân hận suốt khoảng đường từ Saigon tới Bình Dương. Những khó khăn gặp phải trong dịp về phép lúc này đều lắng cả xuống để Phổ thấy rằng việc tránh né gặp An trước khi đi là bậy. Phổ cố gắng phân tích chính mình nhưng anh vẫn không thể hiểu được cái lý do chính, ngại gặp An hay là thực tình không muốn An phải lo lắng cho mình hay là lúc này anh mang nhiều mặc cảm đến độ hèn nhát.
Phổ phải đợi trực thăng ở Bình Dương một ngày rưỡi, khi anh tới Phước Long thì trời đã về chiều, sương chờn vờn trên những cánh rừng cao su bát ngát, nhìn cái quang cảnh quen thuộc này Phổ thấy chán nản cùng cực. Phổ lại bắt đầu bước trên một đoạn đường dài lầy lội.
Phổ càng khó chịu khi nhìn xuống đế giầy, đất đỏ lầy nhầy dính chặt khiến bước đi càng nặng nề, mệt mỏi. Phổ cố tránh một vũng nước mưa trên mặt đuờng, anh tiến sát vào bờ kẽm gai dựa chân lên gạt bớt đất bùn, nhưng Phổ cũng chợt nghĩ rằng, khoảng đường từ đây vào tới tiền cứ của Trung doàn còn xa, đường còn lầy lội. Thốt nhiên Phổ thở dài, anh tưởng như mình khó có thể rút chân lên khỏi mặt đất bầy nhầy, heo hút tại đây.
Nằm đợi tại tiền cứ Trung đoàn một đêm, Phổ căng võng ngay cạnh nhà kho để ngủ, một người lính thấy Phổ hí hoáy cột võng, anh bước lại cười với Phổ :
- Nằm đây sao được, ông nội ?
Phổ tưởng anh lính đuổi mình, anh đứng sững buông chiếc dây võng, người lính nói tiếp :
- Anh vào nằm đỡ trong hầm tôi, nằm ngoài này nhỡ đêm bị pháo kích thì mệt lắm !
Lòng tốt của người lính lạ xảy ra thật bất ngờ làm cho Phổ lúng túng, suốt cả buổi tối Phổ đã loay hoay tìm một chỗ ngủ, khi vừa định mắc võng thì lại được kêu vào hầm ngủ Phổ bỗng thấy được sự an ủi, anh tưởng như nghe tiếng nói thì thầm trong lòng. “Biết đâu mình không còn gặp nhiều bất ngờ, biết đâu những bất ngờ vụn vặt nhất lại không làm đảo lộn cả hoàn cảnh hiện tại, dù sao thì một thay đổi cũng thú vị hơn”.
Sáng hôm sau, Phổ được quăng tới một căn cứ cách Phước Long lối mười cây số. Bùn lầy khắp căn cứ, đất đỏ bị mưa nhão ra như cháo lỏng sền sệt. Những vũng nước mưa còn đọng vàng khè, vết bánh xe hằn đọng chằng chịt. Bùn lỏng ngập quá đế giầy, từng bước đi nặng nhọc cơ hồ như phải rút chân lên khỏi lớp keo dính. Giầy trận càng trở nên nặng nề, mỗi bước kéo theo cả một đám bùn dẻo quánh. Phổ mới theo đoàn công voa từ Phước Long lên đây buổi trưa, cảm giác đầu tiên buồn nản vì chỗ ở mới, rừng cao su vây quanh mịt mù, trời mùa mưa, mây xà xuống thấp, mặt đất lầy lội bẩn thỉu nhưng đây là nơi dừng quân của Tiểu đoàn sau những tháng hành quân ròng rã. Những chiến công của mỗi cá nhân, của cả tập thể pha lẫn máu, nước mắt, mồ hôi để đánh đổi lấy nơi dừng quân này.
Tiểu đoàn đã tạm yên ở đây vài tháng, nhiệm vụ nhẹ nhàng trấn giữ khu vực phía Bắc tỉnh Phước Long. Từ căn cứ này, tiểu đoàn chỉ phải tung các đại đội, các trung đội đi thám kích trong khu vực. Từ ngày nhập ngũ Phổ mới biết được sự nghỉ ngơi, có một chỗ ở nhiều ngày khác hẳn sự di động thường trực của những ngày tháng lội bộ vừa qua.
Nhìn khắp một vòng căn cứ, Phổ nhận được đây là một đồn lớn của một đơn vị địa phương quân. Ở giữa căn cứ là ngôi nhà lớn kiểu cổ của đồn điền cao su, xếp đầy những bao cát phòng thủ để biến thành một pháo đài chính. Tiểu đoàn dùng ngay tòa nhà đó làm bộ chỉ huy. Chung quanh trại, những dãy giao thông hào từng lớp bao đất. Phổ nhìn đợt mây mù xà xuống khắp cánh đồng bên ngoài. Bỗng nhiên, Phổ thấy an ủi ý nghĩ sẽ có một chỗ ở nhất định trong một thời gian nào đó dù sao cũng dễ chịu hơn sự di động mỗi ngày.
Đại đội Phổ may mắn được nằm lại căn cứ giữ an ninh cho tiểu đoàn, hai đại đội khác phải xa nơi này cả cây số.
Đứng hút thuốc một mình trên sân trại cho đến khi trời mưa lắc rắc Phổ mới chạy về công sự của mình. Đại đội đi nằm đường vẫn chưa trở về, buổi trưa xuống xe Phổ được Thượng sĩ Ngữ, Thường Vụ chỉ cho khu vực của đại đội, anh phải mò vào một dãy công sự tìm ra chỗ ở của mình. Phổ nhận được chỗ ở này nhờ các vật dụng của Tám, của Huân treo đầy trong căn hầm hẹp.
Mưa lớn hột, Phổ nằm dài trên võng qua lỗ chân mai, rừng cây bên ngoài, quanh cảnh thật âm u, dưới các đỉnh cây cao su xanh thẫm khó có thể phân biệt được những thân cây chìm khuất trong màu đen đó. Nằm nghỉ trong hầm, Phổ nghe rõ tiếng léo xéo của đàn bà, con nít, những người vợ con lính hễ cứ thấy chồng đóng tạm ở một nơi nào, lại lếch thếch theo sinh sống.
Buổi chiều, Thượng sĩ Ngữ đổ quạu gắt gỏng với đám vợ con lính khi họ nhào ra tranh nhau đồ của chuyến công voa từ Phước Long lên. Phổ còn nhớ rõ giọng nạt nộ của Thượng sĩ Ngữ, ông ta ví đám vợ con lính như bèo tấm, chồng ở đâu được vài ngày là sáp lại. Phổ nhận ra sự gắt gỏng của thượng sĩ Ngữ chẳng ăn nhằm gì, gắt gỏng để gắt gỏng mà thôi vì chính vợ con ông ta cũng có mặt trong đám người chen lấn bên hông mấy chiếc xe GMC chở thực phẩm. Gắt là bản tính của Thượng sĩ Ngữ, có lần thằng Huân nói bô bô lên rằng “đéo biết gắt gỏng thì đéo làm Thường Vụ được”. Ông Ngữ nghe được chửu Huân :
- Đ.M, mày diễu ông hả ?
Sự kiện đó thốt nhiên biến thành một trò đùa vui vẻ trong sinh hoạt đại đội. Phổ nằm dài trên võng với những ý nghĩ hỗn tạp, những lo lăng về gia đình, về Thúy An, điều đáng buồn nhất là bất cứ chuyện gì xảy ra chính anh cũng không thể giải quyết được.
Các khó khăn sinh ra rồi nằm ì đó, mối bất an thường xuyên cho Phổ. Phổ thầm thì “ngày mai sẽ làm gì, không thể tính được gì cả, như Huân, như Tám”. Mọi người khác đều gắng sống ngoài ước mơ nhỏ bé nhất của họ. Có lần Tám ước ao được ăn một cái kẹo, nhưng giữa cánh rừng biên giới làm sao có thể tìm một cái kẹo bây giờ. Phổ nằm một lúc thì đại đội mở đường đã về tới, nhìn những đồng đội mặc poncho ướt át tập họp giữa sân, Phổ chợt liên tưởng đến những con gà mái mắc mưa đang xù lông rũ nước. Phổ đứng ngay cửa hầm đợi Huân và Tám, nước mưa rơi xuống cây đà gỗ bắn vào mặt lạnh lẽo. Đại đội tập họp kiểm điểm quân số rồi tản hàng mau lẹ. Đám người lướt thướt toả ra phía các hầm, Phổ nghe rõ tiếng Tám la lớn :
- Đ.M, lên rồi hả…?
Tám dứt câu đã lao người đến cửa hầm, Phổ lùi vào trong, Tám lách người vào, vừa cởi poncho vừa hỏi :
- Đi đã không mày, mấy bữa nay chúng nó doọc kỹ quá, đại đội còn sáu, bảy chục con, bị phạt mở đường dài dài…
Tám mắc áo mưa lên cây cột, để súng vào giá gỗ, tháo dây đạn, ngồi xuống sạp cởi giầy. Phổ hỏi :
- Huân đâu mày ?
- Doọc từ chiều qua lận… Đ.M, trễ phép coi chừng thác đó.
- Đại Đội Trưởng hách lắm hả ?
- Đ.M, hồi này cha quạu dữ... Về Saigon đánh đấm kỹ chứ ?
Phổ thở dài :
- Đủ chuyện kẹt… đi đéo đâu được !
Cởi giầy xong, Tám sắp xếp chỗ nằm nhường Phổ một góc sạp. Mưa đã tạnh, qua mái hầm Phổ thấy một đứa gái sắn quần quá bắp đùi đang trút nước mưa hứng được từ poncho vào mấy chiếc vỏ đạn đại bác, ở đầu dãy công sự. Cô gái lạ dẫm chân trên bờ công sự lầy lội bùn đỏ lấm dưới chân làm lộ bắp đùi trắng muốt. Mầu trắng của da thịt đàn bà ngợp mắt, một sự cuốn hút kỳ lạ, nôn nao. Anh đứng ép người vào vách hầm và hỏi Tám :
- Ai vậy ?
Tám nhổm người nhìn ra ngoài rồi nói :
- Đ.M, về dưới chưa đã sao, mới lên đã lạng quạng, thằng Bòn chém thấy mẹ !
Phổ cự nự :
- Thấy lạ thì hỏi, lạng quạng đéo gì !
Tám cười lớn :
- Con Chanh, con gái lớn Hạ sĩ Bé đấy ông nội, thằng Bòn dê cả tuần nay rồi.
Hai người nói chuyện bông lông một lúc bỗng có tiếng kiểng đánh lớn. Tám chồm dậy giục Phổ :
- Lấy gà mêm đi đớp mày.
Phổ xỏ giày, quơ lấy gà mêm của Huân treo trên cột theo Tám xuống nhà bếp đại đội. Hai đứa lãnh phần ăn chung rồi bê cả xuống quán của Hạ sĩ Bé. Quán ăn dưới một hầm lớn đầu dãy công sự, dưới ánh đèn bão vàng vọt, Phổ nhìn rõ đám người quây quần trên những chiếc bàn đóng bằng thùng đạn. Phổ vừa cúi người lọt vào quán.
- Ê, lên hồi nào vậy ?
Phổ nhận rõ được giọng Chuẩn úy Thành, Trung đội Trưởng, Phổ lắp bắp trả lời :
- Hồi trưa, Chuẩn úy !
Tiếng Trung sĩ Bảo lè nhè :
- Trễ phép đéo trình diện hả ?
Phổ ấp úng :
- Dạ… dạ…
Bảo lớn tiếng :
- Lại đây mày !
Phổ đặt chiếc gà mêm đựng cơm xuống bàn hất hàm với Tám, rồi dụt dè bước lại bàn Chuẩn úy Thành. Phổ chờ đợi sự nạt nộ của Trung sĩ Bảo, anh đứng thủ thế. Bảo cầm ly la ve lên rồi hô lớn :
- Uống một cái nghe mày !... Phạt đó !
Mấy người trong quán cười rộ, Chuẩn úy Thành hỏi :
- Mấy ngày ?
Phổ đặt ly xuống bàn quẹt bọt la ve trên mép :
- Dạ… hai.
Thành nói :
- Đ.M, đeo gái cho kỹ vào bị phạt ráng mà chịu nghe.
Giọng Phổ trầm xuống :
- Má tôi bị bệnh.
Mấy người ngồi quanh cười hồng hộc. Bảo la lớn :
- Mẹ ốm, vợ đau, con bịnh…thằng đéo nào về trễ chả vậy, cảm động thấy mẹ !
Chuẩn úy Thành nhìn Phổ :
- Mày đi trễ đếch ăn nhậu gì tới tao hết, ông Kính lơ thì lơ luôn, nếu nổi sùng thì ráng chịu, mấy bữa nay bọn nó lặn đều đều, tiểu đoàn nạo ông ấy dữ.
Thành với tay lấy chai la ve, rót ồng ộc vào chiếc ly Phổ vừa đặt xuống, giọng ồm ồm :
- Có gan đi, có gan chịu, ăn nhằm gì, phải không Phổ ?
Phổ cười gượng :
- Dạ… xin phép lại…
Thành chặn ngang :
- Ừ, lại ăn cơm cho vững bụng, chốc nữa có phải phạt còn đủ sức gồng.
Phổ dơ tay chào rồi quay lại bàn.
Tám đã kêu thêm đồ ăn dọn ra bàn, nó vừa cầm vừa nhìn Phổ :
- Xong rồi chứ ?
Phổ nháy mắt cười trừ. Tám gắp thức ăn đưa lên miệng vừa nhai vừa nói :
- Mẹ kiếp, ở Trung đội thì cái đéo gì cũng xong, đụng cha Đại đội Trưởng cà chớn này mệt hơn ông Hồng nhiều, ông Hồng ngon lắm, hễ bị Tiểu đoàn Trưởng la là ông quạt lại ngay, cha Kính này nhát hơn thỏ đế, đại đội cực lây vì chả.
Phổ đặt bát xuống bàn :
- Cha nào cũng thế, ông Hồng được tiếng chịu chơi, đụng đâu là Tiểu đoàn tống đi, cha này nhát nhưng ông Tiểu đoàn Trưởng chịu, vì thế đại đội mới nằm được ở đây.
Tám cáu kỉnh :
- Nằm ở đây ăn giải gì ? Chỉ tổ mấy cha sai vặt !
Tám đẩy đĩa đồ ăn lại phía Phổ :
- Ăn mày, đi đường mệt dữ sao ?
- Khi không làm biếng ăn quá.
- Còn nhớ em hả ?
Phổ cười đưa mắt về phía quầy tính kêu nước uống, Phổ thấy thấp thoáng sau tủ thuốc lá, một mái tóc dài anh gọi lớn :
- Cho chai coca đi.
Tám quay lại nhìn cô gái :
- Đ.M, coi bộ mày chịu dữ.
Phổ cãi lại :
- Thấy lạ thì phải coi cho kỹ.
Tám gật gù :
- Giữa cái bãi sình này thì nhất nó rồi, coi cũng mát mắt. Cha Bé bưng con gái lên để lột lính đó mày, thằng Bòn coi bộ mết dữ.
- Dính chưa ?
Tám nhăn trán có vẻ suy nghĩ :
- Hình như con bé cũng khoái nó.
Cô gái mang chai coca tới đặt mạnh xuống bàn rồi ngúng nguẩy quay đi. Thốt nhiên, Phổ thấy vui lây vì cái trò đỏng đảnh của con bé. Phổ cười hỏi Tám :
- Bộ đắt giá lắm sao ?
- Đ.M, đã bảo cha Bé dùng nó để dụ lính mà, cả chục thằng ve vãn, nhưng coi chừng có đứa ẵm mẹ nó đi thì hốc hác.
- Coi bộ thằng Bòn cũng ngon chứ mày ?
- Ngon đéo gì, mấy vụ đập lộn, đánh giặc thì nó tới chứ vụ gái… thằng bết nhất.
Phổ gật gù :
- Nó tán đúng sách đó mày, giữa cái đám cứ xâu xâu thằng nào dụt dè là sáng nước nhất.
Phổ chợt cười thầm, anh nghĩ cứ đứng ngoài mà bàn thì đâu vào đó lắm, chính mình đụng chuyện thì lại kẹt tùm lum. Phút giây Phổ nhớ tới Thúy An mà lo ngại. Chiều qua ở Phước Long, Phổ đã viết thư cho An, anh cố biện bạch về sự vội vã của mình, nhưng biết đâu chuyện đó sẽ êm xuôi? Phổ thấy rõ khi đang yêu, người ta dễ bị nhức đầu về mấy vụ lặt vặt, tình ái vừa an ủi, vừa bấp bênh, nhưng tất cả những điều đó lại tạo nên hạnh phúc. Phổ đột nhiên im lặng. Tám hỏi :
- Cũng tính nhào vô sao mày ?
Phổ đáp cụt ngủn :
- Không.
- Về dưới có chạy được cái vụ của mày không ?
Phổ chép miệng :
- Chạy quái gì, đợi ở đây chuyển đơn còn mệt.
Hai người ngồi nói chuyện được một lúc; Bên ngoài trời đã tối, Chuẩn úy Thành lớn tiếng hỏi :
- Mấy giờ rồi bay ?
- Tám giờ thiếu hai mươi.
- Uống đại đi còn tập họp.
Tám càu nhàu :
- Mẹ, về đây tối đéo nào cũng phải tập họp, nghe xếp hét thối bố nó tai.
Phổ xoay xoay ly nước, giọng lo lắng :
- Ông Ngữ điểm danh hay quan lớn ?
- Ông Ngữ còn khá, bữa nào gặp chả thì mệt cả đám.
Tám đứng dậy xếp cà mêm :
- Về mày.
Phổ bước theo Tám chui ra khỏi quán; Đêm tối dịu dàng, gió thật mát, quanh trại ánh đèn hắt ra từ các công sự, một vài nơi soi rõ những vũng nước mưa nhơ nhớp. Tám chui vào hầm cất cà mêm, Phổ đứng lại trên bờ công sự quan sát trong vùng tăm tối, những cánh rừng đen xẫm mấp mô dưới nền trời; Tiếng radio mở hết cỡ, giọng ca èo uột “trùng dương nổi sóng, lênh đênh bọt nước, lắc lư con tàu đi…”. Tiếng hát chưa dứt Phổ đã nghe thấy một hồi tu huýt réo lên. Tiếng tu huýt làm Phổ khó chịu, anh liên tưởng ngay tới hồi còn thụ huấn ở quân trường, tiếng kêu đanh đá này đã hành hạ Phổ đến độ anh căm hờn âm thanh đó.
Từ các công sự những người lính lổm ngổm chui lên như một bầy chuột, có người vừa đi vừa gài nút quần, tiếng nói lao xao trên khoảng sân lầy lội. Nhiều người bước nhằm vũng nước phát ra âm thanh phì phọp; Tiếng la lối chửu thề rộ lên. Trên bờ công sự, mấy người vợ con lính đứng ngồi từng đám. Tám kéo vai Phổ ra giữa sân, Phổ hỏi :
- Mấy mẹ khoái xem tập họp điểm danh lắm sao ?
Tám ngoái cổ nhìn lại :
- Tối đéo nào mà chả thế, thú vui công cộng mà.
Tiếng la hối thúc của Thượng sĩ Ngữ vang lên :
- Chạy lẹ, Đ.M, dỡn hả ?
Giọng Bòn trây trúa :
- Phần nào thôi chứ Thượng sĩ, đụng đâu đá đó bùn văng cùng hết, dơ quần, lấm áo bả giặt sao kịp !
Tiếng cười rầm rộ, Thượng sĩ Ngữ quát lớn :
- Đ.M bọn bay, ổng xuống chết mẹ cả đám !
Các trung đội tập họp dài dài giữa khoảng sân lầy lội. Những trung đội phó kiểm điểm quân số, tiếng than thiếu người trong từng tiểu đội. Từng Trung đội báo cáo quân số với Thượng sĩ Ngữ, ông Ngữ tay cầm đèn pin rọi lên một tấm giấy nhỏ và hí hoáy ghi nhận số quân của mỗi trung đội, vừa ghi ông Ngữ vừa la :
- Sao thiếu qúa cỡ vậy nè… các trung đội phó ghi luôn tên mấy đứa doọc cho tôi.
Màn điểm danh thứ hai xảy ra cẩn thận hơn lần đầu nhiều, từng người vắng mặt được ghi rõ tên trên giấy.
Ông Ngữ lầm bầm :
- Đ.M, phạt kỹ như thế mà bọn nó vẫn đông.
Có tiếng đùa giỡn trong hàng quân :
- Lính chịu chơi mà.
Ông Ngữ quát :
- Đ.M, đứa nào giỡn đó ?
Tiếng nói xì xầm :
- Im cha nó mồm đi, lộn xộn hoài chả bắt đứng đến khuya bây giờ.
Ông Ngữ tổng cộng quân số đại đội, càu nhàu :
- Thiếu mẹ nó hai mươi mốt con.
Tiếng xầm xì trong hàng quân :
- Lội lâu qúa không được đi phép thì phải lặn.
- Ê, Trung úy tới bọn bay.
Phổ liếc mắt về phía hầm đại đội, anh thoáng thấy Trung úy kính bước tới, bóng dáng cao ngòng đen sẫm trong đêm tối. Cả Đại đội im bặt, những người lính tự ý so hàng, nghe rõ đế giầy di chuyển lép nhép dưới mặt đất lầy.
Trung úy Kính bước theo hàng quân, Thượng sĩ Ngữ dõng dạc hô “Nghiêm” trình diện đại đội. Phổ chợt thấy thương hại ông Ngữ, nhiều khi anh thấy ông Ngữ phải làm những thủ tục cứng nhắc trong cái không khí thiếu trang trọng đến tức cười.
Thượng sĩ Ngữ báo cáo quân số, Trung úy Kính chặn ngang giọng gay gắt :
- Tại sao thiếu nhiều như vậy, ông kêu mấy ông Trung đội Trưởng.
Bốn sĩ quan Trung đội trưởng đứng một góc bước lại. Trung úy Kính nạt nộ :
- Các ông làm thế nào mà để bọn nó đi dữ vậy, các ông có biết rằng ông Tiểu đoàn Trưởng vừa quạt như tát vào mặt tôi không ?
Kính quay qua hỏi Ngữ :
- Trung đội nào đi nhiều nhất?
Ánh đèn pin lóe lên trên miếng giấy, giọng Ngữ ngập ngừng:
- Trung đội Ba.
- Anh nói rõ cho tôi biết bao nhiêu đứa vắng mặt?
- Tám người.
- Ghi tên chúng nó chưa?
- Dạ rồi.
Kính hằn học với các Trung đội Trưởng:
- Tôi nói với các ông lần chót, các ông liên đới trách nhiệm, tôi đề nghị nhốt các ông!
Kính bước gần tới hàng quân lớn giọng:
- Tôi báo cho các anh biết, Đại đội bị phạt mở đường nửa tháng, ngoài những công tác thường xuyên, kích đêm giữ an ninh cho tiểu đoàn, tôi nói đàng hoàng các anh không nghe, từ nay bất kể anh nào lặn, tôi sẽ phạt thật nặng. Các anh là người chứ không phải thú nói không biết nghe!
Có tiếng xầm xì trong hàng quân, Kính hằn học quát lớn:
- Đứa nào phản đối bước ra đây… tôi phạt cả đại đội.
Hàng quân im lặng, Phổ nhìn thấy trước mặt những thân hình bất động sừng sửng.
Kính nạt nộ cả Đại đội lối mười lăm phút, Phổ nghe thấy tiếng thì thào từ phía sau :
- Đ.M, la hoài, mấy thằng ở nhà cũng nghe chửi.
Kính chống nạng vào sườn gay gắt :
- Những đứa nào lặn mới về, đi phép trễ bước ra đây coi.
Cả hàng quân vẫn không nhúc nhích, Kính quát lớn :
- Tôi nói bước ra !
Hàng quân vẫn bất động, tiếng nói xì xào :
- Đ.M, đứa nào lặn thì bước ra lẹ đi, để cả đại đội bị hành sao ?
Tiếng Bòn nói nhỏ :
- Đ.M, ra thì ra sợ đéo gì.
Bòn tách khỏi Đại đội bước lên vài bước, lôi theo mấy người khác tách khỏi hàng quân. Phổ im lặng bước theo mấy người phạm lỗi, Kính thét :
- Đứng qua bên này coi.
Bòn dẫn đầu đám người bước về phía trái, họ tự động đứng thành một hàng ngang. Ngữ lên tiếng :
- Tám đứa.
Kính bước sấn lại đám lính phạm lỗi, nắm lấy áo người đứng đầu hỏi lớn :
- Tội gì ?
- Dạ nhảy dù.
Tiếng cười rúc rích trong hàng. Kính nóng giận thoi luôn vào mặt người lính, anh lính la ôi ối, cố gắng tránh né. Phổ thầm hiểu Kính muốn dằn mặt đại đội, anh lo lắng đợi tới phiên mình. Kính bước tới hỏi từng ngưòi, đấm đá túi bụi, Phổ hốt hoảng khi thấy Kính đứng trước mặt. Kính không thèm hỏi nữa, đấm ngay vào mặt Phổ, trái đấm vượt qua lưỡng quyền làm Phổ ngã chúi, hai tay vội soài ra chống trên mặt bùn lệt bệt. Bòn đứng chót hàng. Kính bước tới vừa tung trái đấm Bòn đã nhanh nhẹn lách mình tránh được. Kính đấm hụt loạng choạng muốn té.
Tiếng cười nổi lên phía đại đội. Kính hậm hực hét lên :
- Đứng nghiêm.
Bòn nhúc nhích đôi giầy trên mặt đất. Kính đấm xối xả vào mặt Bòn, làm hắn dội ngược, lảo đảo muốn té.
Kính phủi tay lớn tiếng :
- Cà chớn hả, cho tụi bây chết luôn, qùy xuống đó.
Tiếng xì xào nổi lên trong Đại đội, mấy người phạm lỗi nhúc nhích đôi chân, Kính xốc tới hét lên:
- Qùy xuống.
Mấy ngưòi đứng đầu hàng vội vàng qùy ngay xuống mặt đất lầy lội, Phổ qùy theo, anh thấy rõ đất lún trên đầu gối lành lạnh, một viên cuội nào đó trồi lên, khiến Phổ phải nhích đầu gối. Anh nghe rõ tiếng cười rúc rích trong đám vợ con lính đứng ngồi ở bờ công sự. Có tiếng trẻ con trong trẻo :
- Má… Má… Ba phải qùy… Má.
Tiếng cười rộ, tiếp đó tiếng đứa trẻ khóc thét, Phổ biết chắc đứa nhỏ bị mẹ nó đánh. Có tiếng thì thào bên cạnh :
- Con mày hả Ngàn ?
Trung úy Kính quát :
- Không chịu qùy hả ?
Kính xốc tới phía Bòn, đấm đá túi bụi, Bòn loạng choạng té nhào trên mặt đất. Tiếng cười rộ lên trong đám vợ con lính. Bòn vội vốc một nắm bùn thẳng tay tung đại về phía bờ công sự, tiếng đàn bà trẻ con la chói lói. Trung úy Kính nổi nóng tung giầy đá nhằm vai Bon khiến hắn chới với, ngã chúi xuống mặt đất lầy, nhưng hắn đã đứng ngay dậy, xông tới trước mặt Kính :
- Trung úy ngon giết tôi đi !
Kính lùi lại, gằn giọng :
- Mày tính đánh nhau tay đôi với tao hả ?
Bòn vẫn hậm hực :
- Ông ngon đánh đi, tôi có thích ở đây đâu, tôi xin qua Thám Báo...
Ngữ và mấy Trung đội Trưởng nhào tới can khéo. Chuẩn úy Qúy kéo Bòn nói lớn :
- Vừa thôi chứ Bòn !
Bòn đổ quạu :
- Ổng muốn giết tôi mà.
Kính hậm hực nhưng đã dang ra xa, nói với Ngữ :
- Ông cho Đại đội tản hàng, mấy đứa này cho qùy luôn.
Kính nói vớt vát vài câu rồi bỏ đi. Qúy ấn vai Bòn :
- Đ.M, nóng ẩu, thôi qùy xuống mày.
Bòn hạ giọng :
- Qùy thì qùy ăn nhằm gì !
Ngữ cho Đại đội tản hàng, những người lính nhào tới vây quanh những ngưòi bị phạt, tiếng nói ồn ào.
Giọng Ngữ lè nhè :
- Ê Bòn, mày tính đớp ổng hả ?
Bòn cộc cằn :
- Đớp gì, làm quá chịu đâu được !
Mấy người lính bu lại ồn ào, một lát rồi bỏ đi. Hạ sĩ Bé từ trong hầm chạy trở ra, đến gần Bòn la lối :
- Đ.M mày nhe Bòn, mày ngon liệng bùn tao coi.
Bòn im lặng, tiếng cười hồng hộc nổi dậy, một người đến cản Bé, giọng đùa cợt :
- Thôi mà hạ sĩ, nó trót dại liệng trúng bả, con Chanh; Ông tha cho nó.
Tiếng cười rộ, một giọng chen vô :
- Bòn ơi , chết mẹ mày rồi, liệng trúng mẹ vợ, liệng trúng đào, mất vợ là cái chắc.
Bé vẫn lầm bầm chửu thề, Qúy bước tới can :
- Thôi Hạ sĩ, bỏ qua đi, nó nóng ẩu tính đớp cả ông Kính, chấp nó làm gì.
Bé phân trần :
- Chuẩn úy coi, nó nhè đàn bà, con nít liệng ẩu, dơ hết trơn…
Tiếng cười hinh hích nổi lên sau mỗi câu nói, Phổ vừa nhích đầu gối ê ẩm vừa cười thầm trong bụng, chợt ngó thấy Ngàn, anh bỗng tội nghiệp dùm hắn. Phổ quay sang hỏi khẽ :
- Lặn đi đâu mà bị phạt thế này ?
Giọng Ngàn thản nhiên :
- Đ.M, lên Phước Long mua mấy món đồ lặt vặt cho vợ bán.
- Bả không đi được sao ?
- Mắc thằng nhỏ.
Câu chuyện trên sân từ những hậm hực, tức tối dần dần chuyển qua trai gái, dâm dật. Phổ nhìn thấy ngững đợt mây trắng lạt nhạt trôi nổi trên nền trời tăm tối. Mấy người bị qùy gối hai mươi phút thì Thượng sĩ Ngữ trở ra cho phép đứng dậy. Phổ chống tay đứng lên, tay xoa nhẹ trên hai đầu gối ê ẩm.
Chuẩn úy Qúy lớn giọng :
- Đi nhậu bọn bay.
Qúy nổ tiếng trong đại đội là người phóng khoáng, sống gần binh sĩ nhất. Một người bị phạt reo mừng.
- Bữa nay Chuẩn úy chịu chơi quá ta.
Qúy cười quay lại :
- Chịu chơi đéo gì, tao góp một phần, tụi bây góp một phần.
- Đồng ý.
Mấy người ồ ạt kéo nhau đi, Bòn ngập ngừng đứng lại, Qúy thét :
- Ê Bòn, đi chứ mày, ngại đéo gì, lỡ liệng thì vô xin lỗi.
Mấy người cười rộ, Bòn nhép miệng ấp úng :
- Kỳ quá ông ơi !
Qúy lộn lại nắm tay Bòn lôi đi.
- Kỳ mẹ gì, mày liệng vợ mày không được à ?
Bòn nói lảng :
- Tôi ngại ông Bé.
- Ba vợ mày để tao lo.
Mấy ngưòi kéo nhau vào quán Hạ sĩ Bé. Bòn lưỡng lự chưa kịp chui vào hầm đã bị Qúy kéo ấn vô. Qúy la lớn :
- Cho la ve uống nghe.
Bòn then nét ngồi xuống một ghế thấp, nó mắc cỡ ngang. Hạ sĩ Bé mang mấy ly đá đặt lên bàn, vừa trông thấy Bòn, Bé cự nự :
- Tao tưởng mày đi luôn không vác mặt vô đây nữa…
Qúy chặn ngay :
- Ê, tụi tôi vô đây uống nhe, mấy vụ lộn xộn dẹp hết.
Bé nhìn Qúy :
- Chuẩn úy tính…
- Tính mẹ gì, ai không biết nó nóng hoảng, ông chấp nhứt em út sao ?
Bé quay vào lấy thêm ly và la ve. Mấy người đùa cợt.
- Ê Bòn, xin lỗi ba vợ đi chứ !
Bòn vẫn làm thinh cúi mặt. Phổ liếc về phía quầy hàng và thấy mặt Chanh, phụng phịu đầy vẻ giận dỗi. Bé mang la ve ra, tiếng mở chai lốp bốp, la ve được rót ồng ộc vô ly sủi bọt trắng xóa. Qúy kéo chiếc ghế, níu vai Bé ấn xuống :
- Uống luôn nghe ông ?
Bé có vẻ nể Qúy, lúng túng ngồi xuống, Qúy cầm ly lớn tiếng :
- Cụng ly tụi bay.
Tiếng nói vui vẻ ồn ào. Qúy hối :
- Bòn, cầm ly mày.
Bòn dụt dè đưa tay với lấy ly la ve.
Ngàn la lớn :
- Hạ sĩ cụng ly huề với nó.
- Huề con mẹ gì, tha cho con rể.
Nhiều người cười rộ. Họ ép Bé cụng ly với Bòn, tiếng vỗ tay lốp đốp. Qúy quay vào la lớn :
- Đem gì ra nhậu coi.
Bé lật đật đứng dậy đã bị Qúy ấn xuống :
- Ngồi đây, tối nay uống gục luôn, đứa nào còn tỉnh cứ việc bước qua xác tao.
Một người lên tiếng :
- Tụi tôi còn đi gác.
- Mấy đứa ?
- Hai.
- Cho hai đứa bay tự do.
Bàn nhậu càng lúc càng hào hứng, đám người hết uống la ve đổi qua rượu đế. Chiếc ly nhỏ đầy ắp rượu đế được chuyển xoay vòng. Mọi người ăn nhậu, nói chuyện thoải mái, Bé cũng hết còn giận Bòn, ông ta khen nó :
- Tui nói thật, hồi nãy giận thằng Bòn cành hông, nhưng thấy nó hối cũng tội.
Nhiều người cười nói ồn ào, có người đề nghị :
- Hạ sĩ kêu con Chanh ra gả phứt cho rồi.
Qúy chặn ngay :
- Vừa phải thôi, Đ.M, nhậu với tao đừng có loạng quạng.
Phổ ngồi uống chếch choáng. Anh nhìn quanh lướt qua những khuôn mặt đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, miệng trơn bóng. Phổ thấy mọi người đều dễ mến. Trong hơi men người ta dám nói thẳng với nhau, cá tính bày tỏ. Thốt nhiên mọi bực tức, mọi lo nghĩ trong lòng vơi đi, Phổ thấy thích cái tính liều lĩnh của Bòn, cái nghênh ngang của Qúy, sự khiêm nhượng của Ngàn. Một giây Phổ tưởng mình tan loãng trong cái tình thân hữu đó. Ý nghĩ này cũng gây cho Phổ tự tin và được an ủi.
Hai người lính mắc gác dời khỏi, một người yếu rượu đã gục đầu xuống bàn. Trong ánh mắt chập chờn, Phổ nhìn thấy mái tóc lởm chởm đầy bùn đất đặt cạnh một mớ xương “sý-oắt” bầy nhầy. Có ngưòi đề nghị Hạ sĩ Bé ca vọng cổ, Bé cao hứng loạng choạng đứng lên vỗ tay, lè nhè :
- Ê, im hết… im hết… tui ca nè… ca tặng Chuẩn úy Qúy và mấy anh em…
Tiếng vỗ tay át hẳn giọng nói, Qúy cười hô hố :
- Hạ sĩ Bé ngon mà.
Bé lấy hơi, gân cổ :
- “Chàng là từ hậu phương đồng chua nước mặn hay nơi chốn biên cương gió lộng mây ngàn…”.
Mỗi lần Bé xuống câu, tiếng tán thưởng, tiếng vỗ tay rầm rộ. Một người trong bọn la lớn :
- Không được, không được…ca mà không có đờn là không được.
- Ê Bòn, quên ngón nghề hoài sao.
- Bắt nó về hầm xách cây “ghi-ta” qua gấp.
- Đứng lên mày.
Bòn lao đao đứng dậy chui ra khỏi hầm. Lúc đó Phổ mới kịp hiểu rõ lý do con Chanh thích Bòn.
Bòn xách cây “ghi-ta” cũ tróc sơn trở lại, nó ngồi ngay ngắn trên ghế so giây, những tiếng đàn rời rạc loãng tan trong căn hầm ấm áp. Bòn so giây đàn xong, nó ôm cây “ghi-ta” nơi ngực quay ra hỏi trống không :
- Ca bản gì đây ?
Hạ sĩ Bé cao hứng :
- “Nếu anh là lính chiến”.
Tiếng vỗ tay xen lẫn tiếng nói :
- Được lắm… Được lắm.
Qúy cười lớn :
- Bứng mẹ nó chữ nếu đi, anh là lính chiến, anh là lính chiến đây em ơi !
Mọi người cười rộ. Bòn dạo đàn âm thanh ngọt ngào cuồn cuộn như nước lũ. Phổ ngồi từ phía trái ngắm Bòn qua vị thế nghiêng. Anh thấy Bòn quyến rũ kỳ lạ. Đèn chiếu sáng một phần khuôn mặt, những sợi tóc phất phơ dưới vầng trán, tay lướt trên phím đàn. Điệu bộ của Bòn thật đam mê, hình như nó đặt cả tâm trí vào mười đầu ngón tay, âm thanh rung lên đến tê buốt. Hạ sĩ Bé vô câu, “nếu anh là lính chiến, em sẽ là người em gái hậu phương gửi ra tiền tuyến ngàn vạn cánh thư hồng… Anh chưa trở lại em vẫn là cô gái chưa chồng… Mỗi tuần em viết gửi anh ba mầu giấy hồng, xanh, trắng…”.
Phổ liếc mắt vào phía quầy hàng. Anh thấy Chanh chống tay lên cằm say đắm nghe nhạc, phút giây Phổ nhớ tới Thúy An, anh thầm ao ước cái hạnh phúc hiện tại của Bòn. Qua lỗ hầm của chỗ ăn, từ phía xa những trái hỏa châu rớt xuống, để lại những vệt khói oằn oèo trên nền trời đen tối mênh mông.
Subscribe to:
Posts (Atom)